Đến hẹn gặp tổ trưởng Đỗ Đức Kiên, tôi nói rõ lí do không ở với anh Tám nữa. Kiên lắng nghe, khen tôi cư xử thế là rất có tình có
nghĩa. Nhưng khi tôi hỏi nơi
sẽ đến ở, Kiên ngớ người chưa nghĩ ra chỗ nào. Phần lớn các cơ sở của anh đều
là sinh viên, công chức có vợ có con, nhà cửa chật chội, tuy thể nào cũng có
người sẵn sàng nhận lời nhưng những chỗ ở như thế không tiện cho sinh hoạt và
công việc của người thoát li gia đình hoạt động bí mật. Sau một hồi bàn tính, hai anh em quyết định: tạm thời tôi
lại đến trú chân trong nhà Đu. Chỗ ở thế là tạm ổn. Về cái ăn thì mỗi sáng đến
bờ hồ Hoàn Kiếm lĩnh một suất cơm của đoàn Khất thực do Hoàng Phương[1] cung cấp
(trong tổ Đỗ Đức Kiên ngoài tôi còn có Hoàng Phương và Sáu). Sống cầm hơi như
thế dăm ba ngày, đợi Kiên bàn thêm với Sáu tìm chỗ thích hợp.
Bố mẹ Đu đã quá quen cậu bạn học hiền lành của con
trai nên sốt sắng thu xếp chỗ ở cho tôi. Phố Bắc Ninh[2] không
quá tấp nập cũng không quá vắng vẻ, thợ thuyền tới làm cho chủ các cửa hàng
đồ gỗ hết giờ ai về nhà nấy nên chẳng ai chú ý sự có mặt của cậu học trò mới
đến ở trong nhà gia đình nghèo túng vào loại nhất phố.
x x
x
Ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp ký một hiệp
ước qui định Pháp phải hằng năm cung cấp lương thực cho chúng. Từ 1941 đến 1944
mỗi năm Pháp nộp cho Nhật từ 700.000 đến1,3 triệu tấn lúa, ngô, tương đương
50-80% tổng sản lượng lương thực nước ta thời đó. Ngoài ra phát xít Nhật còn
cần rất nhiều loại nguyên vật liệu nên chúng bắt nông dân ta phải nhổ lúa trồng
những cây có sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu...
Vụ mùa năm 1944 nạn đói tàn khốc nhất
lịch sử nước ta ập đến. Năm ấy đâu đâu lúa cũng chết vàng, mọi giống lúa đều bị
đạo ôn (bọ rầy) phá hỏng. Đã thế bè lũ phát
xít Nhật thực dân Pháp còn bắt dân ta đóng vô vàn thứ thuế …
Toàn dân vô cùng lo lắng trước nạn đói chưa từng có trong lịch sử có thể giết chết
hàng triệu người. Một số thanh niên lập Đoàn Khất thực hàng ngày đi quyên góp cơm gạo cứu đói. Các nhà hảo tâm nấu
cơm, nắm sẵn thành từng nắm, đoàn Khất thực tới nhận mang đi phân phát cho những
người sắp chết đói nằm
la liệt khắp thành phố. Công cuộc cứu đói được đông đảo dân
thành phố nhiệt liệt hưởng ứng, người có nhiều góp nhiều, có ít góp ít theo tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Người không có cơm gạo thì góp công góp
sức. Người
không có thì giờ, nhân lực để nấu cơm nắm thành từng suất thì góp gạo giao cho các đoàn viên Khất thực nấu.
Không chỉ từng lớp trung
lưu mà nhiều nhà tư sản yêu nước thương dân cũng sốt sắng góp công của vào việc
nghĩa theo truyền thống của dân tộc “lá lành đùm lá rách, người trong một nước
phải thương nhau cùng”. Tiêu biểu là nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà (1894 - 1980) chủ hãng sơn Gecko. Lúc
trẻ làm phụ thư kí cho một hãng buôn Pháp
sau đó sang làm cho hãng sơn Sauvage Cottu ở Hải Phòng.
Với ý định tự lập, làm giàu, sau một thời gian làm cho hãng, ông tự tìm cách
sản xuất sơn bằng phương pháp thủ công, rồi tiếp cận dần với kỹ thuật hiện đại.
Hãng sơn của ông lấy tên Gecko với logo là con tắc kè xanh.
Năm 1939, Nguyễn Sơn Hà cùng
vợ đến thăm Phan Bội Châu đang bị Pháp
quản thúc tại Huế.
Cuộc gặp gỡ này đã tác động sâu sắc đến Nguyễn Sơn Hà: ra tranh cử Hội đồng
thành phố, tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội Ánh sáng, Hội
Truyền Bá quốc ngữ, thành lập các cơ sở từ thiện, mở trường Dục Anh nuôi dạy
trẻ lang thang, cơ nhỡ ngay bên biệt thự của gia đình trên đường Lạch Tray, Hải Phòng. Biết tin quê nhà (huyện Quốc Oai) bị mất mùa
nhân dân đói kém, ông về quê giúp đỡ bà
con, chuyển hàng trăm cây dừa về trồng ở bên đường và đình làng để tạo bóng mát
và thu hoạch quả, cử người đi học nghề dệt vải rồi mua tặng dân làng 4 máy dệt mở
cơ sở sản xuất tạo việc làm và thu nhập cho dân. Trong nạn đói Ất Dậu (1945),Nguyễn Sơn Hà thuyết
phục những người giàu có cùng với mình lập Hội Cứu tế để giúp đỡ dân nghèo. Ông
tặng toàn bộ số thóc thu được từ 200 mẫu ruộng của ông ở Kinh Môn
(Hải Dương) vào công cuộc cứu đói. Lúc đầu số
thóc đó đem nấu cháo, sau đó nấu cháo cũng không đủ cung cấp, phải chuyển sang
làm bánh tấm, bánh cám phát cho dân.
Vỉa hè các phố phường
Hà Nội, các vườn hoa, gầm đường dẫn cầu sông Cái chỗ nào cũng chất đống xác người
chết đói. Sáng sáng có những chiếc xe bò do người kéo chở xác đi chôn. Một hôm
thấy trên xe có người còn động đậy hai cẳng chân tôi gọi người kéo xe “ Bác ơi,
có người còn sống đấy!” Người kéo xe thản nhiên: “Biết rồi. Đến chỗ chôn nó chết
là vừa!”
Mỗi sáng theo đúng hẹn vào khoảng chín giờ tôi tới cổng đền Ngọc Sơn. Hoàng Phương
trưởng đoàn Khất thực khu phố chọn trong bị cói lấy nắm cơm to nhất giúi cho tôi.
Bữa nào được nắm cơm phủ mảng cháy vàng rộm to bằng
nửa bàn tay tỏa mùi
thơm điếc mũi thì sướng không sao tả xiết!
Giấu kín nắm cơm trong cặp da tôi lững thững cuốc
bộ tới đường Cổ Ngư mới dám lấy ra ăn. Mặt mũi lúc này tuy hốc hác xanh xao nhưng vẫn còn dấu vết thư sinh, so với những người
nông dân và dân nghèo đói rách sắp chết đói kia thì tôi vẫn còn khoẻ còn đẹp
chán. Mẽ người thế này mà ăn cơm Khất thực thì đáng
nghi lắm. Chó săn tay sai của Nhật, các loại Việt gian, hiến binh mặc thường phục
lúc nhúc soi mói khắp nơi, đánh hơi mọi
xó xỉnh, không thể vì háu đói mà sơ xuất.
Đường Cổ
Ngư vẫn khá đông người. Nhưng không phải là những đôi trai thanh gái lịch Hà Nội
ngồi tự tình mà toàn là những người tứ xứ thất thểu dìu nhau lên Hà Nội kiếm miếng
ăn họ thấy trong tưởng tượng khi còn ở quê nhà.
Tôi tới dưới gốc phượng vĩ, cách mấy toán hành khất chừng mươi bước chân, ngồi bẻ nắm cơm ra
ăn. Cơm nấu bằng gạo hẩm, nắm vội nên không dền, mỗi khi bẻ một miếng lại bở ra
một mảng, cơm rơi lả tả. Tôi khép chặt đùi hứng không để rơi mất hạt nào, một hạt
cơm bây giờ rất quí.
Ngày thứ nhất tôi yên ổn ngồi
ăn hết nắm cơm. Những hột cơm nhạt thếch, mấy miếng đầu làm tôi ngán tưởng chừng
không nuốt nổi nhưng rồi cũng thấy ngon khi nhớ lại nắm cơm nấu nước vôi trong
nhà tù Thanh Hóa.
Ngày thứ hai tôi vẫn ngồi chỗ ấy ăn hết nắm cơm không
gặp rắc rối gì. Hôm nay ăn đã thấy ngon miệng hơn, khả năng thích nghi với hoàn
cảnh giúp tôi luôn chiến thắng mọi tình huống ngặt nghèo để sống và chiến đấu.
Ngày thứ ba, tôi vừa nhai kĩ miếng cơm chờ đến lúc nó
ngọt lịm mới nuốt vừa móc túi lấy tờ truyền đơn Chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ra đọc. Nhìn bốn xung quanh thấy toàn những bộ xương đầy
ghét quấn không kín trong mảnh khố tải rách bươm, không thấy có bộ mặt nào đáng
ngờ, tôi co chân trái, tì khuỷu tay cầm nắm cơm lên đầu gối, tay kia lấy tờ
truyền đơn trong túi đặt lên đùi bên phải. Che chắn như thế là cẩn thận lắm rồi, không sợ lộ bem.
Mới đọc được vài câu thì bất chợt nắm
cơm bật khỏi tay. Tôi giật mình, ngửng đầu lên vừa kịp trông thấy người đang bỏ chạy. Gọi là
chạy nhưng thực ra tấm thân liêu xiêu đó chỉ loạng choạng được mươi bước là phải tì vội vào thân cây bên hồ cho khỏi
ngã. Đó là một cô gái còn trẻ, mái tóc khô vàng như túm rơm buông xõa, hai má
lõm sâu, hai cẳng chân khẳng khiu như hai ống nứa lộ ra dưới mảnh bao tải lờm xờm.
Cô dựa vào gốc cây, giơ nắm cơm vừa cướp được lên nhìn như lạ lẫm, như nghi hoặc
rồi ngoạm một miếng. Hình như bị
nghẹn, cô vươn dài cổ, mấy đường gân mấy mạch máu tím sẫm hằn lên.
Bất chợt cô gái quay nhìn tôi. Đôi mắt tròn to, đen
lạ lùng dưới cặp lông mày đầy đặn. Nhìn tôi chừng mươi giây rồi cô bẻ chỗ cơm
còn lại làm đôi, chìa về phía tôi và nhoẻn miệng cười để lộ hai hàm răng trắng
hởn. Thấy tôi vẫn ngồi im, cô khẽ nhấc nhấc bàn tay cầm cơm, như ra hiệu cho tôi đến nhận. Cũng có lẽ cô ra hiệu sắp tung cục cơm tới chỗ tôi.
Tôi giấu vội tờ truyền đơn vào túi, xua cả hai tay,
lắc đầu.
Cô gái nguýt dài. Rồi ngồi thụp xuống, ăn tiếp chỗ cơm đang nắm trong
hai bàn tay lem luốc, vàng vọt, trơ
xương, run lẩy bẩy…
Tôi quay mặt
nhìn xuống đám cỏ khô xơ xác ven hồ, nước mắt ứa ra…Nắm cơm của tôi chắc chắn
không thể cứu người con gái nhân hậu ấy thoát chết đói. Tội nghiệp quá!
SĐM