Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

MẤY ĐỜI BÁNH ĐÚC CÓ XƯƠNG…



          Tôi lên hai tuổi thì mẹ tôi qua đời sau khi sinh con bé em vì căn bệnh ngày xưa gọi chung chung là bệnh hậu sản. Khi tôi lên năm btôi lấy vợ lần thứ hai. Vài năm đầu bà ấy rất tử tế, một điều mợ hai điều mợ nghe ngọt như mía lùi. Vừa đẻ ra thằng con đầu là bà ấy trở mặt, bắt ne bắt nẹt tôi từng li từng tí, từ miếng ăn miếng uống đến lời thưa gửi vâng dạ. Đã thế lại thường hay đặt điều vu vạ, ton hót  làm tôi bị bố đánh đòn oan. Nhưng bà ta vẫn chưa hả dạ.
 Hồi tôi học lớp tư tiểu học (cour préparatoire), một buổi chiều hè oi bức vừa về đến nhà thì được bà dì ghẻ săn đón niềm nở khác hẳn mọi ngày.
- Mợ để phần con bát chè đỗ đen trong bếp. Mở lồng bàn lấy ra mà ăn cho mát ruột, đỡ đói, tối nay còn lâu mới có cơm.
Thằng bé háu ăn tức tốc chạy vào bếp, hất tung chiếc lồng bàn. Chẳng kịp lấy thìa, hai tay bưng bát chè nấu với bột sắn dây đặc quánh húp lấy húp để. Húp hết chè, ngửa cổ úp chiếc bát lên mặt định liếm đáy bát thì thấy rất nhiều sợi tóc li ti phủ một lớp đen kịt từ thành bát xuống đến đáy bát. Lúc ấy tôi nghĩ: chắc tóc vụn ở đâu đấy theo gió bay vào. Nuốt vào bụng, nó leo lên đầu thì thành tóc, trôi xuống chân thì thành lông, chẳng sao! Một tối khác, học bài xong tôi đứng dưới sân hóng mát. Cửa sổ tầng gác ngay trên đầu đóng kín, ánh đèn xuyên qua lá sách vạch những vệt sáng song song dưới sân. Bỗng thấy những vạch ấy biến thành khung sáng hình chữ nhật, tôi ngửng đầu nhìn lên vừa kịp nhẩy sang bên tránh chậu hoa từ trên ấy lao xuống cùng lúc với bóng một đầu người vừa thụt vào. Chậu hoa to một vòng tay ôm vỡ tan tành, văng một mảnh vào cẳng chân tôi tóe máu. Lần này cái đầu thơ dại của tôi cũng chỉ nghĩ đơn giản “Hú vía! Suýt vỡ đầu vì cái chậu hoa rơi!”
Tết năm ấy, cô Tiến em bố tôi đến chúc Tết, lân la hỏi tôi chuyện sức khỏe, học hành, ăn uống v.v… Tôi nói với cô đủ thứ chuyện kể cả chuyện bát chè đỗ đen, chuyện chiếc chậu hoa. Nghe xong cô ôm chầm lấy tôi khóc sụt sùi một lúc lâu. Mãi sau cô mới thở dài “Tội nghiệp cháu tôi! Mấy đời bánh đúc có xương…” Lát sau cô lại nói “Sao mà người ta nhẫn tâm đối xử với con chồng tàn ác đến thế?...” Cô bàn với bố tôi cho tôi về ở với cô với lí do “gần trường học, hiệu sách của em có rất nhiều sách cho cháu tha hồ đọc”. Nhưng vì cô Tiến không dám nói rõ lí do tại sao cô đưa ra đề nghị này nên bố tôi không nghe. Bản thân tôi hồi ấy nghe cô than thở cũng không hiểu, nhiều năm sau tôi mới nhận ra ý cô nguyền rủa bà dì ghẻ độc ác và muốn đưa tôi thoát khỏi những mưu mô của bà ấy tiếp tục ám hại tôi...
Tuy chưa đủ khôn để nhận ra dã tâm bà dì ghẻ nhưng những đối xử bất công, những lời đơm đặt làm tôi bị bố đánh nhiều trận đòn oan cũng đủ làm tôi căm ghét, rắp tâm trả thù bà ta khi có dịp thuận tiện. Một hôm trong khi tôi đang ngồi học thì bà ấy đến đứng trước tủ gương chải đầu. Chiếc tủ gắn gương kín một bên cánh, kê ngay phía trước bàn học của tôi.  Nhìn vào gương thấy cái mặt quằm quặm rất đáng ghét của bà ta, tôi bĩu môi thật dài, giơ nắm đấm dứ dứ mấy cái. Bất chợt bà ấy quay phắt lại, chỉ tay vào mặt tôi quát: “Giỏi nhỉ! Mày không biết tao có con mắt sau gáy đây à? Gớm thật, dám dọa đánh tao cơ đấy. Để tao bảo bố cho mày một trận“. Thế là tôi lại bị bố đánh trận đòn thừa sống thiếu chết vì tội dọa đấm dì ghẻ. Từ sau bữa ấy tôi cạch không dám làm gì sau lưng bà ta nữa, đinh ninh bà ấy có con mắt mọc ở gáy có thể trông thấy mọi thứ sau lưng! Hồi ấy tôi mới lên bẩy lên tám tuổi ấy mà! Nhiều năm sau mới biết tại sao mình giơ quả đấm sau lưng mà bà ấy lại trông thấy!
x x x
Nửa thế kỉ đầy sóng gió trong vận mệnh dân tộc cũng như trong số phận mỗi con người trôi qua. Trong nửa đầu thập niên 80 người dân miền Bắc sống thiếu đói túng quẫn trăm bề trong cảnh “đêm tối trước Đổi Mới".
Ở Hà Nội liên tiếp xẩy ra nhiều vụ làm người dân khiếp hãi. “Vua Lốp” Nguyễn Văn Chẩn tuy làm ăn chính đáng, bỏ vốn bỏ công sức sản xuất được những chiếc lốp xe đạp rất tốt nhưng năm 1980 bị chính quyền vu cáo là  ' tư sản mới ', đầu cơ, làm ăn phi pháp, bị tịch thu tài sản và tống vào tù ba mươi tháng. Bà Oanh vợ Nguyễn Văn Chẩn nói:
"Một số cá nhân có chức quyền lúc bấy giờ ‘nổi máu tham’ muốn kết tội ông Chẩn để thừa cơ vơ vét tài sản của gia đình. Song, họ không ngờ rằng bao nhiêu tiền kiếm được từ việc sản xuất, kinh doanh lốp, ông Chẩn đều quy đổi ra vật liệu, tích trữ vật liệu để tiếp tục sản xuất chứ nào biết mua bán vàng bạc, tích trữ của nả gì. Họ sục sạo khắp mọi ngõ ngách trong nhà để tìm vàng bạc mà chẳng được gì. Vì trót nhúng tay vào chàm rồi nên họ vẫn phải tịch thu công cụ, nguyên vật liệu, niêm phong nhà xưởng sản xuất và phải... kết tội ông Chẩn".
 Năm 1983 xẩy ra vụ chỉ thị “Z30” tịch thu nhà và tài sản những người có nhà từ hai tầng trở lên. Khi Hà Nội bắt đầu thực hiện thì Nguyễn Văn An bí thư tỉnh ủy Hà Nam Ninh nhận được công văn của sở Công an thành phố xin duyệt danh sách 200 gia đình có nhà từ hai tầng trở lên để kiểm tra hành chính tịch thu tài sản. Bí thư Nguyễn Văn An chột dạ. Sao lại có chuyện vô lý thế? Để có tiền xây căn nhà tránh mưa, nắng, người dân phải bỏ ra biết bao mồ hôi, công sức trong khoảng thời gian nhiều khi đằng đẵng cả chục năm trời, thế mà giờ đây lại có lệnh tịch thu tài sản của họ là cớ gì? Nguyễn Văn An đi Hải Phòng gặp bí thư thành ủy Đoàn Duy Thành bàn tính xem nên xử trí  thế nào. Đoàn Duy Thành phân tích "làm thế là phi đạo lí, trái pháp luật. Cuộc sống của nhân dân còn khổ sở, tích cóp được ít tiền xây nhà cho cha mẹ con cái ở không dễ dàng gì. Nay ta tịch thu thì người dân ở vào đâu, ở bằng cái gì" v.v. Sau đó Đoàn Duy Thành được tin Mười Cúc (tức Nguyễn Văn Linh, Bí thư Thành ủy TP.HCM) không cho thành phố làm, đợi đến hội nghị Trung ương để hỏi cho ra nhẽ. Hội nghị Trung ương tháng 6-1983 lên án Z30, chấm dứt một chủ trương kì quái mà Hà Nội phải giải quyết hậu quả đến 1992-1993 mới xong.
 Năm 1985 có vụ Tạ Đình Đề bị bắt lần thứ hai vì tội “thu thập ca dao hò vè nói xấu lãnh đạo, chống chế độ xã hội chủ nghĩa rồi truyền cho người khác nghe những câu như Đầu đường thiếu tá bơm xe, Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen, Cuối đường đại tá bán kem, và Tôn Đản[1] là chợ vua quan, Nhà Thờ[2] là chợ trung gian nịnh thần, Bắc Qua là chợ thương nhân, Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng v.v.” Tạ Đình Đề hay ngâm nga những câu ấy vì sau khi được tòa tuyên bố vô tội và trả tự do năm 1976  nhưng không được chính quyền trả lại sổ gạo, tem phiếu khiến đời sống vợ chồng con cái khốn quẫn…Đến tháng 12-1987 viện Kiểm sát Tối cao ra quyết định đình chỉ điều tra, trả tự do cho Tạ Đình Đề…
         Đã thế hội nghị Trung ương 8 khóa V (10-6-1985) lại quyết định một cuộc cải cách lớn nhằm tăng sức mua của đồng tiền lên gấp 10 lần. 12 tỉ tiền mới in ở Cộng hòa dân chủ Đông Đức mang về đưa ra thị trường. Dân phải đổi tiền cũ lấy tiền mới theo tỉ giá 10 cũ ăn 1 mới. Mỗi người chỉ được đổi lấy 2 000 đồng mới, số tiền cũ còn thừa phải gửi ngân hàng, nhà nước sẽ xét sau. Nhiều người vì thế mất sạch số tiền dôi dư và tiền gửi tiết kiệm. Vì chỉ in 12 tỉ đồng nên trên thị trường khan hiếm tiền. Không có tiền trả lương công nhân, nhiều nhà máy trả lương bằng sản phẩm, có công nhân lĩnh lương bằng…một chồng mũ, có giáo viên nhận lương bằng phân bón! Để có đủ lương thực, nhà nước thu mua 40 % nông sản với giá cực rẻ “mua như cướp”. Các địa phương lo giữ hàng cho địa phương mình, chống nạn đầu cơ buôn bán chợ đen nên đua nhau lập hàng loạt trạm kiểm soát tạo thành tình trạng “ngăn sông cấm chợ”. Để giải quyết khó khăn, chính phủ phải in thêm tiền, dẫn đến vật giá tăng: cuối năm 1986 giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3 %, lạm phát lên đến 774,4 %.
Cuộc sống vừa khốn đốn về vật chất vừa bức bách về tinh thần. Không ai dám sản xuất, kinh doanh, mọi người đều lo ngay ngáy không biết ngày mai sẽ còn xẩy ra chuyện gì nữa. Đào Xuân Sâm, thành viên nhóm cố vấn cho tổng bí thư Trường Chinh nhớ lại: “Giữa năm 1986, cả nước thiếu đói trầm trọng. Các dự án kinh tế đầu tư khổng lồ đều không phát huy tác dụng. Nguyên vật liệu khan hiếm khiến các nhà máy sống thoi thóp. Lạm phát lên 300, 400, 500 và 700%... Lòng người từ trong đến ngoài Đảng, từ cơ sở đến trung ương hoang mang và loay hoay không biết lối ra".
Trong hoàn cảnh xã hội như thế tất nhiên cuộc sống của dì ghẻ tôi càng khốn khổ hơn nhiều người khác vì tuổi đã cao lại lắm bệnh, không vốn liếng, không nghề nghiệp, không tháo vát, không chỗ dựa, đã thế từ khi chuyển từ Hưng Yên về sống với con trai vẫn chưa đăng kí được hộ khẩu nên không được cấp tem phiếu lương thực…Bà sống lay lắt trong đói khát ốm đau ở phố Nguyễn Siêu với vợ chồng chú em cùng bố khác mẹ với tôi. Chú em này đau dạ dày rất nặng, là giáo viên tiểu học thất nghiệp, hai vợ chồng phải nuôi một thằng con bẩy tuổi…mấy mẹ con bà cháu chỉ rau cháo qua ngày, dở sống dở chết trong tình thế bị dồn vào chân tường không có lối thoát. Nhưng bà ta không tìm đến tôi, chắc do mặc cảm về những chuyện cũ. Vì thế tôi không biết rõ hoàn cảnh sống của mấy bà cháu, cho đến hôm chú em tìm đến nhà tôi xin “vay” vài cân gạo. Tôi hỏi tại sao phải vay gạo và được nghe kể về tình cảnh khốn đốn của mấy mẹ con, bà cháu.
Tôi đến thăm người ngày xưa đã hai lần ám hại tôi khi tôi còn non dại, lần thứ nhất trộn tóc vụn vào bát chè đỗ đen, lần thứ hai ném chậu hoa từ trên gác xuống đầu tôi nhưng không trúng. Sau một hồi hỏi chuyện tôi thấy tình cảnh bà ta thật đáng thương. Tôi giúi cho bà ta ba mươi đồng, vừa đủ chi dùng tằn tiện trong một tháng. Từ đó về sau, tháng nào tôi cũng trích đồng lương còm chu cấp cho bà ta số tiền ấy. Ngoài ra gần như mỗi tháng một lần chú em xách chiếc bị cói đến nhà, tôi lại trích từ tiêu chuẩn lương thực của gia đình dăm ba bơ gạo kèm với ít ngô hoặc khoai trút vào bị cho chú mang về cứu đói.
Sáu tháng sau, một buổi xế chiều chú em đi tàu điện đến báo:
 - Mẹ em sắp chết, đang muốn gặp anh lắm.
Tôi đạp xe đến nơi, vén màn nhìn bộ xương bọc da xám xịt đang thở hắt trên giường. Thương tình, tôi nắm lấy bàn tay khô đét. Chưa kịp nói lời an ủi thì bà dì ghẻ rụt tay về, lẩy bẩy đặt lên ngực chắp  hai tay run run vái tôi ba vái. Rồi tắt thở.
 Tôi cúi đầu trong một phút, cầu mong linh hồn bà chóng siêu thoát. Xét cho cùng, dì ghẻ tôi chỉ là nạn nhân vô thức của cái xã hội coi trọng đồng tiền hơn tình nghĩa con người.

                                                                                                                                       SĐM


[1] Cửa hàng ở phố Tôn Đản bán nhiều mặt hàng cao cấp theo giá rẻ cho cán bộ cấp cao.
[2] Cửa hàng ở phố Nhà Thờ bán nhu yếu phẩm theo giá cung cấp cho cán bộ trung cấp.

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

THẰNG NGU

Một ngày đầu tháng 5-1975. Đang ngồi trên ghế công viên ngắm dinh Độc Lập tôi thấy Chu Quang Hưng dắt chiếc Honda ra khỏi cổng. Tôi gọi Hưng thật to và chạy vội qua đường đến bắt tay cậu ta. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 Hưng buôn bè gỗ từ Tuyên Quang xuôi sông Hồng về Hà Nội bán, sau Cách mạng tháng Tám khai lí lịch là thành phần công nhân nên tuy trình độ kiến thức quân sự ở mức i tờ nhưng năm 1950 được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường quân chính trực thuộc bộ Tư lệnh Liên khu Việt bắc. Tôi –trưởng ban Tuyên huấn thường tới trường giảng các bài chính trị, nói chuyện thời sự nên quen Hưng, ít lâu sau tôi trở thành chính trị viên trường nên càng thân…
Gặp lại nhau sau cuộc chiến tranh ác liệt, cả hai đều mừng thấy bạn cũ vẫn còn sống. Hưng cho biết đang công tác ở Ủy ban Quân quản thành phố.
Đang nói chuyện tào lao tôi chợt nghĩ ra, hỏi:
          - Tôi định xin cấp nhà đưa vợ con vào trong này. Ông thấy có nên không?
Hưng sốt sắng:
-Nên quá đi chứ. Sống trong này thoải mái hơn ngoài Bắc nhiều. Hàng hóa nhiều mà toàn thứ tốt, thức ăn thức uống cũng sẵn và rẻ hơn.
Tôi băn khoăn:
-Nhưng tôi đưa cả vợ con vào, liệu có được một chỗ ở khơ khớ không?
 Hưng mở xà cột lấy ra tấm bản đồ.
-Ông khỏi lo. Trong này đang thừa ối nhà. Bản đồ thành phố đây, trong bản đồ tôi đánh dấu nhà những sĩ quan ngụy bỏ chạy theo Mĩ hiện đang bỏ trống chưa cấp cho ai. Ông thích nhà nào ở quận nào thì chấm một cái, lên xin anh Trần Văn Trà chủ tịch Ủy ban Quân quản là xong ngay.
Tôi nhìn bản đồ, phân vân chẳng biết nên chọn nhà nào, quận nào vì có biết gì về thành phố này đâu! Sau một lúc tôi nhắm mắt “chấm một cái” gần cầu Thị Nghè. Hưng mở sổ tay, nói tên phố, số nhà cho tôi ghi. Rồi hướng dẫn cách viết đơn gửi Ủy ban Quân quản mang đến văn phòng trong dinh Độc Lập.
Hôm sau tôi nhờ một cán bộ có chiếc Honda 67 chở đi xem nhà. Đây là cơ ngơi một trung tá quân đội Sài Gòn, kiểu bán biệt thự, hai tầng mỗi tầng 5 gian, phía trước có mảnh vườn trồng hoa, trong nhà còn nguyên giường tủ, bàn ghế, phòng ăn có tủ lạnh, buyp phê chứa những bộ bát đĩa dao nĩa bóng loáng, các phòng ngủ đều gắn máy lạnh. Tôi không ngờ mình nhắm mắt chấm bừa trên bản đồ mà lại chấm trúng chốn thiên đường nơi hạ giới. Tôi nhẩm tính cách bố trí chỗ ở: tầng dưới là phòng khách, phòng ăn, phòng sinh hoạt chung của gia đình, phòng tôi làm việc, phòng ngủ của hai vợ chồng. Trên gác ba phòng cho ba đứa con vừa làm phòng ngủ vừa là phòng học, hai phòng tiếp họ hàng bè bạn ngoài Bắc vào chơi. Tuyệt vời, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ chưa bao giờ nghĩ đến một chỗ ở vương giả đến thế dù chỉ trong mơ!
Ba ngày sau tôi đến dinh Độc Lập  nhận quyết định cấp nhà có chữ kí của chủ tịch ủy ban Quân quản. Ngay hôm ấy tôi gửi thư ra thượng tướng Đặng Vũ Hiệp phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị xin ở lại công tác trong thành phố. Thư viết đại ý ‘Miền Nam đã được giải phóng, tổ quốc đã thống nhất,  đề nghị cho tôi ở lại trong này –công tác ở bộ Tư lệnh Thành phố hay Quân khu 7- như vậy tôi sẽ có điều kiện kết hợp công tác với đảm bảo sinh hoạt gia đình, nhất là việc học hành của 3 cháu. Rất mong anh thông cảm với hoàn cảnh và chấp nhận đề nghị của tôi’.
Hai ngày sau, có điện của Cục Cán bộ: ‘Tổng cục quyết định đồng chí phải ra ngay, tham gia ban Tổng kết Chiến tranh, viết phần Công tác đảng-công tác chính trị trong đánh Mĩ’.
Tôi vào gặp Ủy ban Quân quản trả lại bản quyết định cấp nhà.
Khi biết chuyện tôi được cấp nhà nhưng đã trả lại, mấy người bạn thân  mắng té tát:
-Sao cậu ngu thế? Có cả một đống em, một đống cháu trong thành phố, không ở thì giao cho họ trông coi giúp, sau sẽ tính. Sắp đến tuổi về hưu rồi…Chưa ở, cho thuê mỗi tháng cũng được vài chục đồng. Ngu quá là ngu!
Họ nêu ‘gương’ Chu Quang Hưng lợi dụng vị thế cán bộ Ủy ban Quân quản chiếm ba ngôi nhà, cái ở, cái nhờ người quen trông coi, cái cho thuê mà có sao đâu! Ngon ơ ! Tôi sực nghĩ ra ‘Ừ nhỉ, mình ngu thật. Ngu ơi là ngu!’ Nhưng rồi lại nghĩ ‘Quân đội cấp nhà để mình ở nếu mình làm việc trong này, không ở thì trả lại là đúng chứ?’ Lúc thấy mình ngu lúc lại thấy mình chẳng ngu tí nào. Làm người tử tế khó thật! 
Trả nhà xong, tôi đến chia tay mấy cô mấy chú em họ rồi trở về trường. Đang chuẩn bị lên đường ra Bắc nhận công tác mới  thì Nguyễn Lang phó Tư lệnh binh đoàn Trường Sơn mới được thăng cấp đại tá đến thăm trường. Bệ vệ trong bộ quân phục gắn quân hàm đại tá mới cứng, Nguyễn Lang quát trung tá chính ủy Cao Tâm ra cổng đón đại tá thay hiệu trưởng Thái đi vắng.
-Đại tá đến kiểm tra, sao không lập hàng rào danh dự?
Cao Tâm vội tập hợp hai tiểu đội học viên dàn thành hàng ngang hai bên lối đi vào trường.
Đại tá Nguyễn Lang trịnh trọng đi giữa hàng rào danh dự, rồi đi lướt một vòng xem qua nơi ăn chốn ở của học viên, ra thao trường xem thao diễn động tác đội ngũ. Buổi chiều đại tá phó Tư lệnh nói chuyện với toàn trường. Đại tá nói về thắng lợi vĩ đại của quân dân ta trong đó đoàn Trường Sơn đã đóng góp một phần không nhỏ. Rồi đại tá phân tích tình hình và nhiệm vụ mới. Trong toàn bộ nội dung buổi nói chuyện của phó Tư lệnh kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ, cán bộ và học viên nhà trường tâm đắc nhất hai điều: thứ nhất, ta đã đánh thắng Mĩ tên đế quốc giầu nhất mạnh nhất phe đế quốc nên từ nay về sau bố bảo cũng không một kẻ thù nào dám động đến nước ta. Thứ hai, chỉ  ba năm nữa ta sẽ đuổi kịp Nhật Bản về kinh tế, khoa học kĩ thuật, về mức sống của người dân..
Tôi chưa từng thấy diễn giả nào được hoan hô nồng nhiệt kéo dài như diễn giả Nguyễn Lang hôm ấy. Tất cả mọi người từ cán bộ khung, giáo viên đến học viên, y tá, chị nuôi đều muốn hét lên thật to: “Sướng đến nơi rồi! Sướng đến nơi rồi, sắp đuổi kịp nước Nhật rồi bà con anh em ơi!”
Riêng chính ủy Cao Tâm có vẻ không chú ý lắm đến những điều to tát tầm cỡ lịch sử ấy. Ngồi cạnh tôi, chính ủy hậm hực lẩm bẩm:
-Mẹ kiếp! Đúng là phú quí sinh lễ nghĩa. Tháng trước còn xắn quần móng lợn lội bùn ở trọng điểm, hôm nay đã đòi phải lập hàng rào danh dự!
Sau này nhiều người nói: hai ý quan trọng của Nguyễn Lang hôm ấy không phải của phó Tư lệnh mà của thủ tướng Tố Hữu đấy! Tôi không biết có đúng thế không, chỉ có điều chắc chắn là ngày 2-7-1976 đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa 6 tôi nghe rõ lời tuyên bố của Tổng bí thư Lê Duẩn “15 năm sau ta sẽ theo kịp Nhật Bản”.
Lúc nghe được câu ấy tôi vô cùng phấn khởi:”Mười lăm năm sau tức là năm 1991 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chúng ta sẽ bằng nước tư bản chủ nghĩa Nhật! Nhà nhà đều có tivi, tủ lạnh, tôi sẽ có ngôi nhà sang trọng, đầy đủ tiện nghi còn hơn ngôi nhà gần cầu Thị Nghè tôi trả lại Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn năm 1975. Sướng ơi là sướng!”

                                                                                                                                    SĐM




Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

GẶP LẠI NHỮNG NGƯỜI EM HỌ

Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân Chính Lê Nin ở Matxcơva, năm 1962 Trần Linh chủ nhiệm khoa Công tác Đảng-Công tác Chính trị về nước mang theo lá thư chị tôi ở Paris (sang học và chữa bệnh lao phổi từ năm 1947) gửi cho tôi trong đó có địa chỉ mấy người em con chú Hội sống trong thành phố  Sài Gòn. Nhận lá thư Linh đưa, tôi thắc mắc: bằng con đường nào lá thư từ Paris đến được Matxcơva khi mà việc thư từ đi lại giữa Pháp và Liên Xô lâu nay vẫn nhiều trở ngại? Mở thư ra đọc tôi mới biết: chị tôi gửi thư này nhờ Trần Linh mang về vì như chị viết trong thư “Từ khi tướng De Gaulle lên làm tổng thống năm 1959 không khí nước Pháp đã dễ thở hơn trước, việc đi lại với Nga xô không còn bị theo dõi, nghi ngờ. May mà tình hình thay đổi như thế nên chị mới gửi được lá thư này đến một người bạn làm trong đại sứ quán mình ở Moscou nhờ chuyển về cho em. Mong được tin em sau gần hai chục năm biền biệt không biết sống chết thế nào”. Người bạn này đến gặp đoàn học viên Việt Nam ở Học viện Lê Nin sắp về nước và nhờ Trần Linh mang thư về cho tôi, phó khoa của Trần Linh.
Hàng chục năm qua tuy không có liên lạc nhưng tôi tin các người con của chú tôi vẫn ở lại quê hương dù họ có thừa điều kiện để di tản ra nước ngoài. Theo truyền thống tộc Nguyễn họ đều có tinh thần yêu nước, đều phản đối sự đô hộ của bọn đế quốc thực dân. Tin thế nên khi Sài Gòn vừa được giải phóng, tôi đi tìm ngay mấy người em họ con ông chú với niềm tin chắc chắn sẽ gặp.
Người đầu tiên tôi tìm đến là cô Thịnh con gái thứ năm của chú Hội. Những năm 1940 chú Hóa chồng Thịnh là kiến trúc sư nổi tiếng ở Hà Nội, hai vợ chồng  thuê căn nhà ở phố Hồ Hoàn Kiếm ngay sau lưng chùa Bà Kiệu. Hồi còn đi học tôi hay đến đây, vừa vuốt ve con chó Fidèle vừa nghe hai vợ chồng chơi đàn, vợ đánh piano, chồng kéo violon. Sau khi đi vào hoạt động bí mật thỉnh thoàng buổi tối tôi vẫn lẻn đến ngồi ngoài cửa nghe đàn cho khuây khỏa…Những bản valse, menuet nhẹ nhàng vuốt ve các dây thần kinh, xoa dịu mọi căng thẳng do cuộc chiến đấu đầy nguy hiểm và cuộc sống thiếu thốn đủ đường gây ra cho tôi.
 Sau hơn ba mươi năm xa cách không biết ai còn ai mất giờ đây tôi rất nóng lòng mong gặp lại người thân, trên đường đi tìm nhà vợ chồng Thịnh câu ”Lệ mừng gặp nhau, xôn xao phím dương cầm [1] luôn thủ thỉ bên tai. Chắc chắn vợ chồng cô em cũng sẽ rất vui khi gặp lại người anh con ông bác từ cuộc kháng chiến dài đằng đẵng sống sót trở vềQuả nhiên khi trông thấy tôi sau cánh cửa vừa mở chú Hóa mừng rỡ reo lên: “Anh Phan!” rồi gọi rối rít “Thịnh ơi! Anh Phan đây này!” Cô vợ từ nhà trong chạy ra, đứng sững nhìn tôi mãi mới cất được tiếng chào: “Anh ạ!”.
 Sau vài câu chuyện, nhìn khắp nhà không thấy cây dương cầm hồi ba mươi năm trước, tôi hỏi và được Hóa cho biết sau khi vào Sài Gòn ít lâu hai vợ chồng không chơi đàn nữa. Họ đã bán chiếc dương cầm cho một nhóm nhạc rock trong thành phố. Hóa nói:
-Tôi tốt nghiệp trường kiến trúc Pháp, hành nghề với bằng cấp của Pháp, thích chơi nhạc Pháp, hát bài hát Pháp. Trong này người ta không ưa những người mà họ cho là thân Pháp. Để khỏi rắc rối phiền phức ảnh hưởng đến cuộc sống, bọn tôi không đàn không hát nữa.
Hóa cười chua chát:
-Chúng tôi đành chấp nhận sống một cuộc sống vô văn hóa.

Hôm sau tôi đến thăm Nguyễn Khắc Mẫn con trai thứ ba của chú Hội ở với vợ con gần trường đua Phú Thọ. Cháu Nga con gái lớn của hai vợ chồng mở phòng chữa răng. Chiếc ghế nha khoa đặt ngay sau cửa ra vào chiếm một phần chiều ngang căn nhà hẹp. Có lẽ vì sống trong vùng khí hậu nóng bức uống nhiều nước đá nên nhiều người Sài Gòn sớm bị hỏng răng. Phòng răng khá đắt khách là nguồn thu quan trọng của hai vợ chồng chú Mẫn và đàn con chín người.
Hai vợ chồng mời tôi ăn cơm trưa. Vừa ăn uống vừa trò chuyện vui vẻ, chú Mẫn nhiều lúc tỏ ý ân hận vì không tham gia kháng chiến do quá nặng gánh gia đình, ngược lại cô vợ có vẻ bằng lòng với cuộc sống nhàn tản không giầu sang nhưng không “khốn khổ thiếu thốn trăm bề như bộ đội các anh”. Trong lúc ăn, hình như sợ tôi không biết thưởng thức các món cô khoản đãi nên cô không ngớt hướng dẫn: “Đây là rượu vang của Pháp. Vang Pháp làm ở vùng Bordeaux ngon nhất hạng, hơn vang của Úc, của Mĩ nhiều. Càng lâu năm càng ngon càng đắt tiền. Sau khi mở nút anh phải để ba mươi phút cho nó “thở” rồi hẵng uống…Bơ Bretelle của Pháp đây anh. Anh phết lên lát bánh mì này, ăn với thịt bò bít tết. Bơ mặn đấy ạ, anh phết một lớp mỏng thôi kẻo mặn quá mất ngon” v.v… Tôi nghĩ bụng: cô em sống giữa Hòn ngọc Viễn Đông, là chủ nhà tiếp ông anh họ mới từ rừng rú về  nên cô dặn dò cặn kẽ thế là phải. Chu đáo thế mới giúp ông anh khỏi làm chuyện ngớ ngẩn như mấy ông cán bộ sang Tàu công tác được mời ăn tiệc, đến lúc tráng miệng thấy bên cạnh mỗi đĩa đựng quả đào có một đĩa xôi các ông bèn véo xôi ăn ngon lành làm các cô gái Tàu phục vụ che miệng cười khúc khích. Các ông không biết đây là xôi để “làm lông” quả đào trước khi ăn…Tuy nghĩ thế nhưng rồi tự nhiên tôi lại nổi tự ái, hơi bực mình: “Có vẻ như nó coi bộ đội mình toàn là dân khố rách áo ôm, là bọn thực bất tri kì vị. Phải cho nó biết tay!”  Định bụng thế nhưng nghĩ mãi chưa tìm ra cách gì để “cho nó biết tay”.
Khi ăn xong, nhìn tách cà phê bốc hơi nóng trên tay cô em bưng ra, tôi nghĩ ngay được một cách.
Cô Mẫn mở hộp đường hỏi:
         -Anh dùng mấy viên?
         Tôi lắc đầu:  
         -Tôi uống cà phê không bao giờ cho đường. Uống không đường mới thưởng thức được hương vị đích
thực của cà phê.
         Cô Mẫn trố mắt ngạc nhiên nhìn ông anh họ nhẹ nhàng hớp một ngụm cà phê không đường ngậm trong miệng, phập phồng hai cánh mũi. Cô hỏi:
-Cà phê uống được không, anh? Em phải đấu mấy thứ theo công thức bí truyền của bố em mới được thế này đấy ạ.
Tôi không trả lời ngay được vì còn đang phải cố lấy gân giữ cho mặt không nhăn nhó trong khi từ từ nuốt ngụm cà phê đắng ngắt, một lúc sau mới lạnh lùng phán xanh rờn:
         -Cô trộn hơi nhiều robusta. Phải giảm bớt robusta, tăng thêm arabica thì cà phê mới thơm ngon.
Tôi nói bừa thế chứ có trộn cà phê bao giờ đâu mà biết nên tăng nên giảm loại nào. Được cái cũng biết thưởng thức cà phê nhờ hồi 1970 trong chiến dịch đường 9 được công nhân các đồn điền nhiều lần mời uống cà phê chồn. Cà phê này còn có tên “cà phê cu li” do bọn thực dân Pháp đặt vì nó là thứ do chồn ăn các quả cà phê chín mọng ngon nhất rồi ỉa hạt ra, phu đồn điền (cu li) hót những hạt cà phê đã được ướp các enzyme và lên men trong dạ dày chồn về chế biến thành thứ cà phê đặc biệt thơm ngon, có lẽ thơm ngon nhất thế giới.
Sau lúc ấy tuy luôn tay bày ra nhiều món tráng miệng, nhưng cô em không hướng dẫn tôi cách ăn cách uống tỉ mỉ như lúc trước, chỉ giới thiệu vắn tắt: “Tháng tư tháng năm này là mùa hoa quả chín rộ ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đây là chôm chôm, vú sữa, đây là thanh long, sầu riêng, còn đây là bòn bon, mãng cầu xiêm…” Nghe những cái tên lạ, nhìn những loại quả chưa ăn bao giờ tôi dè dặt không dám mạnh tay. Thấy thế cô Mẫn lặng lẽ bóc vỏ thứ quả này, bổ loại quả kia bỏ vào đầy đĩa tôi và nhẹ nhàng "Mời anh".
Khi ngồi uống trà, chú Mẫn nói:
-Trong này họ đồn ba anh giải phóng bám vào cành đu đủ không gãy. Tôi không tin nhưng cũng không thể ngờ anh là bộ đội Cụ Hồ mà lại sành điệu thế. Xin bái phục sát đất ông anh bộ đội!
Tuy thấy mình rõ ràng không xứng với lời khen ấy nhưng mũi tôi vẫn phổng lên rất to…
SĐM





[1] Lời bài hát Có phải em là mùa thu Hà Nội nhạc Trần  Quang Lộc, thơ Tô Như Châu.

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

ĐỒ DỞ HƠI!

           Sài Gòn giải phóng. Tôi vào tìm họ hàng và tham quan thành phố.
Sau khi đứng dưới tán cây tránh giọt mưa lâm thâm dự lễ Mừng Chiến thắng tôi lững thững dạo quanh thành phố. Hòa trong nhiều niềm vui khác tôi càng vui khi thấy mọi thứ còn nguyên vẹn, chỉ lác đác vài dấu vết nho nhỏ của cuộc chiến ác liệt vừa kết thúc vài ngày trước. Riêng sân bay Tân Sơn Nhất mang nhiều thương tích nhất: hố bom, tường đổ, xác máy bay cháy…Một số nơi dọc bờ sông cũng gợi lên hình ảnh cuộc chiến tranh: xe máy, xe jeep, quân phục, giày, mũ nhà binh bằng nhựa bằng sắt, bi đông bẹp dúm vứt ngổn ngang, có chổ chất cao chắn hết hè đường.
Sau cuộc lễ khoảng một tiếng, không khí trở nên yên tĩnh, nhiều nhà đóng kín cửa, phố xá vắng người qua lại. Xem trên tivi tôi thấy Hà Nội mừng giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà sôi nổi, tưng bừng hơn trong này nhiều. Phải chăng vì người Hà Nội đã phải trả giá đắt hơn? Hay vì Hà Nội không phải đau lòng chứng kiến cảnh hàng vạn người bỏ của cải, nhà cửa, thậm chí có người bỏ cả vợ con để chạy trốn cuộc tắm máu tưởng tượng? Tôi không giải thích nổi, chỉ ghi nhận.
Khoảng một tuần sau, ở nhiều nơi trong thành phố diễn ra một cảnh khá lạ mắt. Nhiều chiếc xe tải Zil 130, Zil 157 phủ bạt kín mít đang oằn lưng xẹp nhíp cõng những thứ được bộ đội khiêng ra từ các doanh trại từ nhà các sĩ quan quân lực Sài Gòn bỏ trốn ra nước ngoài. Thùng xe chất đủ thứ  từ tủ lạnh, máy điều hòa, giường tủ gỗ cẩm lai đến chậu cây cảnh, đôn sứ…Ngồi cạnh lái xe trên cabin là một cán bộ trẻ có, ương ương có mà lớn tuổi cũng có. Tôi nhận ra trong số đó có dăm ba ông Cục phó, Cục trưởng, Sư trưởng, Chính ủy sư đoàn của binh đoàn Trường Sơn. Có những vị mấy hôm trước còn tả xung hữu đột, dốc sức chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc không tiếc mạng sống, giờ đây đang xoay trần bốc lên xe đủ thứ thượng vàng hạ cám để chở về nhà. Mồ hôi nhễ nhại, đầu tóc bơ phờ mặt mày hốc hác trông thật tội nghiệp! Những vị có bà con thân thích trong thành phố còn được tặng vài món quà. Dân Sài Gòn mỉa mai “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”. Trước các tiệm buôn mới mở cửa lại sau nhiều ngày nghỉ bán chờ thời, nhiều chiếc xe du lịch mang biển số trắng, biển số ngoại giao nối đuôi nhau xếp hàng. Các ông tây bà đầm từ Hà Nội kéo vào tranh nhau xùy đô Mĩ mua toàn những hàng xịn còn nguyên đai nguyên thùng: máy cát xét vừa nghe băng vừa chạy đĩa, giàn nghe nhạc băng cối loa thùng Akai, tivi National, tủ lạnh Hitachi…
Đúng là cốc mò cho cò xơi…trong khi những chiến sĩ được nghỉ phép về thăm quê chỉ xách những chiếc khung xe đạp, những hộp các tông đựng con búp bê biết nhắm mắt khi đặt nằm, thứ sang nhất là cái quạt Nhật cũ. Các chú lính trẻ hí hửng mang những thứ ấy về làm quà chiến thắng tặng bố mẹ, tặng người yêu. Khi qua trạm kiểm soát ở các cửa ngõ thành phố các chú phải van nài gần như khóc mới không bị tịch thu vì tội phạm kỉ luật, làm sai qui định của cấp trên “Không được mua, không được mang hàng ra Bắc”.
Thấy một khu nhà bề thế nằm giữa bốn bề hàng rào sắt, hai cánh cổng mở toang dưới tấm biển đề “Trường Sinh Ngữ“, không có bộ đội gác, bên trong không có bóng người, tôi tò mò bước vào. Trên lối đi có rất nhiều sách, phần lớn đã ngấm nước mấy trận mưa đầu tháng, trên những trang giấy mủn nát hằn rõ nhiều vết giầy, giầy bộ đội, giầy bốt tin, đôi chỗ có cả dấu giầy cao gót. Dấu chân trần của người lớn, trẻ con cũng khá nhiều.
Hai dãy nhà dài lợp ngói nằm hai bên sườn, cửa chính cửa sổ gỗ sơn nâu cái đóng cái mở, bên trong tối om. Chắc là phòng học sinh ngữ hồi trước.
Tôi vào căn nhà vuông nằm giữa khuôn viên, bốn bề gắn kính. Nền nhà phủ kín nhiều lớp sách chồng lên nhau. Không bị nước mưa nên sách không mủn nát như những quyển vút ngoài sân, nhưng bị dẫm đạp, quăng quật, nhiều cuốn bị xé mất một số trang–chắc là những trang ảnh… Đưa mắt nhìn một lượt tôi thấy có rất nhiều loại sách từ văn học, ngôn ngữ học, y học, khoa học tự nhiên đến triết học, sử học v.v. Nhiều nhất là sách tiếng Anh, sách tiếng Pháp cũng khá nhiều.
Trong phòng có nhiều tủ kính kê trên nền nhà ngoài ra còn có những tủ kính treo khắp bốn bức tường, chắc là những tủ trước kia đựng sách, bây giờ trống hoác. Tất cả sách trong từng ấy chiếc tủ đã bị lôi ra, quẳng xuống đất, bị giằn vặt, tra khảo tàn tệ. Những người vào đây trước tôi chắc đã thất vọng, bực tức khi không tìm thấy những thứ đáng giá họ đang tìm.
Nhìn quang cảnh này, tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ. Một kho tàng kiến thức quí giá đã bị hủy hoại.
Tôi bới trong đống sách với hi vọng may ra sẽ vớt vát được ít nhiều cuốn còn tương đối nguyên vẹn. Sau một lúc toát mồ hôi, tôi tìm được mấy cuốn tự điển Larousse, Oxford, cuốn Chủ nghĩa Hiện sinh là Chủ nghĩa Nhân đạo của Jean Paul Sartre, vài cuốn tiểu thuyết của Gustave Flaubert, Guy de Maupassant, một tập Livre de Poche trong đó có cuốn Bác sĩ Jivago của Boris Pasternak v.v. Tất cả bỏ đầy một chiếc bao tải ai đó vứt  trong thư viện. Tôi cõng bao tải lên lưng, trở về đơn vị.
Vài ngày sau nhân có đoàn xe chở hàng của các thủ trưởng mang về nhà ở Hà Nội, tôi nhờ cậu Ngôn lái xe của binh trạm tôi ngày trước mang giúp về nhà số sách tôi đã lau chùi sạch sẽ, xếp gọn gàng trong hòm đạn Mĩ nhặt bên đường.
Mười ngày sau, cậu Ngôn lái xe trở vào để chở tiếp hàng của các thủ trưởng, nhân thể tìm gặp tôi để báo tin nhà cửa vợ con tôi. Sau khi nghe tin tức về tình hình Hà Nội, tình hình vợ con, cuối cùng tôi hỏi:
- Cậu mang giúp mình hòm sách ra Bắc có bị rắc rối gì không?
- Báo cáo thủ trưởng, trót lọt không suy xuyển gì. Lúc qua trạm kiểm soát, nó bắt mở hòm, lục soát từ dưới lên trên, mở tung những quyển dầy để kiểm tra trong ruột rồi hỏi ‘Cậu biết tiếng nước ngoài đấy à?’  Em trả lời: ‘Không. Sách này của chính ủy tôi đấy chứ’. Thủ trưởng có biết nó nói gì không?
- Nó nói gì?
- Xin lỗi thủ trưởng. Nó bĩu môi ‘Bao nhiêu thứ quí chẳng lấy, lấy một đống sách. Đồ dở hơi!’
Tôi bật cười, vỗ vai chú lái xe thật thà, nói ‘Cám ơn cậu’.
                                                                                                                                    SĐM