Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

CHẶN ĐƯỜNG HÔNG CƯ VÀO BAN CHÂP HÀNH TRUNG ƯƠNG


 Năm 1986. Nghe tin Đảng sắp họp đại hội VI,  nhân lúc trà dư tửu hậu với người bạn từ thời đi học, tôi hỏi thượng tướng Đặng Vũ Hiệp phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam:
 -Ông lại tiếp tục tham gia Trung ương nhiệm kì nữa chứ?
(Hiệp trúng cử Ủy viên Trung ương dự  khuyết  tại đại hội IV năm 1976, ủy viên chính thức năm 1982, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quân ủy trung ương năm 1985).
 Hiệp lắc đầu:
 -Không. Theo tin mình nắm được thì ban Tổ chức đề cử Hồng Cư tham gia ban Chấp hành trung ương trong nhiệm kì này.
Tôi giật mình. Cái thằng che giấu lai lịch xuất thân địa chủ, giấu tội nộp 32 bạn học cho mật thám Pháp, làm tôi và Huy con phải vào tù mà lại được đề cử vào Trung ương Đảng! Mà có đến 99 % khả năng nó sẽ được đại hội bầu vì theo chủ trương cơ cấu lâu nay, trong Trung ương phải có Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và một phó chủ nhiệm. Nó đương chức phó chủ nhiệm, cấp trung tướng, lại là em cọc chèo của đại tướng Tổng Tư lệnh. Xứng đáng quá! Các đại biểu dự đại hội đâu có biết những tội tày trời nó che giấu mấy chục năm nay!
Biết rõ tội nó nhưng trong bốn mươi năm qua tôi không tố cáo với tổ chức vì nghĩ rằng chuyện đã lâu không nên nhắc tới mà nên cho nó cơ hội lập công chuộc tội. Nhưng đã đến nước này thì không thể im lặng được nữa.
Tôi cả quyết:
-Không thể để Hồng Cư lọt vào danh sách đề cử. Hắn không đáng mặt.

 Đặng Vũ Hiệp ngạc nhiên:
-Thế à? Sao không đáng?
-Tôi nói riêng với một mình ông thì không có lợi cho ông. Nghe xong, tất nhiên ông sẽ phải báo cáo với tổ chức và có thể người ta cho rằng vì bị rút khỏi Trung ương nên ông đặt điều gièm pha Hồng Cư. Đang là chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Quân ủy trung ương, ông triệu tập ủy ban để tôi  báo cáo với ủy ban. Và ông không nên dự, đằng nào các ủy viên ban Kiểm tra cũng phải  báo cáo nội dung cuộc họp với ông, lúc ấy ông sẽ biết hết đầu đuôi. Trước mắt ông nên tránh xa vụ này càng xa càng tốt.
Tôi biết sẽ bị Hồng Cư trả thù. Nó sẽ chẳng thiếu gì cách hại tôi. Đòn của nó sẽ rất nặng. Tôi cản đường nó vào Trung ương thì nó sẽ chặn đường tôi lên cấp lên chức, tôi hết hi vọng được tăng tiêu chuẩn nhà ở, tiền lương, chế độ chữa bệnh, nghỉ dưỡng v.v. Thật trớ trêu, cái thằng nộp tôi cho mật thám Pháp tra tấn rồi bỏ tù tôi hồi trước cách mạng bây giờ lại là thủ trưởng của tôi! Sự đời nhiều khi có những nghịch cảnh éo le như thế! Nhưng không vì vậy mà tôi chùn bước, nhất định phải chặn đường không cho hắn có cơ may lọt vào Trung ương! Để bảo vệ sự trong sạch của Đảng đã có biết bao đảng viên phải hi sinh cả tính mạng của mình, dù tôi bị thua thiệt đến đâu cũng chẳng đáng bận tâm.
Hai ngày sau tôi được mời vào gặp các phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quân ủy trung ương, Kinh Chi Cục trưởng Cục Bảo vệ và một số cán bộ của các cơ quan liên quan. Không thấy có Đặng Vũ Hiệp, tôi yên tâm.                          
Tôi trình bày lai lịch xuất thân của Lê Đỗ Nguyên: bố là Lê Đỗ Kỳ địa chủ có hàng trăm mẫu ruộng ở ấp Thị Long huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, có vườn rộng, nhà xây gạch khang trang ở giữa thị xã. Tôi thuật lại cặn kẽ vụ tháng Hai năm 1945 Lê Đỗ Nguyên học trường Bưởi cùng khóa với tôi đã khai báo cho mật thám Pháp ở Thanh Hóa bắt 32 bạn học, phá vỡ phong trào Việt Minh hồi đó.  Hôm thấy hắn trong phòng tạm giam của sở Mật thám tôi đã trực tiếp chất vấn hắn và hắn nhận đã khai báo.
Mọi người ngồi nghe, không ai hỏi han, chất vấn gì. Tôi nói xong, thiếu tướng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra bảo thư kí đưa biên bản cho tôi, tôi đọc kĩ, chữa vài câu chữ rồi tự ý viết bên dưới : “Tôi cam đoan báo cáo đúng sự thật, nếu sai xin chịu kỉ luật”. Kí tên.
 Sau đại hội VI, đọc đi đọc lại danh sách 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết ban Chấp hành Trung ương không thấy có Hồng Cư, tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi không nghĩ rằng việc chặn đường không để hắn lọt vào Trung ương đảng khóa VI là “công” của tôi mà có thể do tiếng nói của một hoặc nhiều người khác, cũng có thể do một số nguyên nhân nào đó. Đối với tôi, điều quan trọng là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng không có những phần tử phản bội, gian dối, cơ hội lọt vào và lương tâm được thanh thản vì tôi đã làm tròn trách nhiệm với Đảng.
Trong lịch sử Đảng ta đã có những tên che giấu tội ác chúng gây ra trong quá khứ, leo lên những chức vụ quan trọng trong Đảng. Điển hình là Nguyễn Hà Phan người huyện Giồng Trôm, Bến Tre. Năm 1984 làm bí thư tỉnh Hậu Giang, 1986 trúng Ủy viên Trung ương dự khuyết, 1990 Ủy viên Trung ương chính thức, năm 1991 vào ban Bí thư Trung ương, trưởng ban Kinh tế Trung ương, 1992 phó Chủ tịch Quốc hội, 1993 vào bộ Chính trị, thường trực ban Bí thư. Đến lúc này mới có đảng viên phát hiện Nguyễn Hà Phan hồi bị Pháp bắt đã khai báo cho địch phá nhiều cơ sở nằm vùng nên năm 1964 hắn được địch trả tự do. Ban Bảo vệ trung ương mở cuộc điều tra, rà soát hàng vạn trang tàng thư và kết luận: đúng là Nguyễn Hà Phan đã khai báo rất nghiêm trọng, những người được hắn xây dựng thành cơ sở trong lòng địch đều bị khai ra hết, sau đó bị địch giết toàn bộ. Ngày 17/4/1996 hắn bị khai trừ Đảng, tước hết mọi chức danh trong Đảng và Nhà nước.
Hiện nay không ít người có công vẫn chưa được xác nhận, chưa được hưởng chính sách chế độ gì nhưng trong các cấp chính quyền và tổ chức Đảng lại có không ít những kẻ khai man lí lịch, tự phong tặng những bằng cấp, học vị, những danh hiệu cao quí để thủ lợi về vật chất, tinh thần. Không bị địch bắt giam nhưng được lĩnh trợ cấp ‘cựu tù chính trị’, khai báo cho địch khủng bố cách mạng nhưng được nhận trợ cấp ‘cán bộ tiền khởi nghĩa’, khai man đảng tịch để được nhận huy hiệu tuổi Đảng cao…Một số nhỏ trong bọn -ở những cấp thấp- đã bị những người dũng cảm không sợ trù dập không sợ mất bát cơm manh áo vạch mặt. Chỉ riêng một tỉnh Cà Mau tính đến năm 2012 đã phát hiện 600 vụ sử dụng bằng cấp giả. Năm 2013 Phạm Thị Hải Chuyền bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội báo cáo với quốc hội: “ trong 5 năm qua đã phát hiện 7 100 trường hợp giả thương binh, cựu chiến binh, thu hồi 75,5 tỉ đồng của 3378 người trong số đó."
Rõ ràng chúng vẫn còn rất đông. Cuộc chiến sẽ còn dài. 
                                                                                                                                                SĐM  



Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

SUÝT CHẾT VÌ THẰNG BÀNH TRƯỚNG!


Cuối tháng Giêng năm 1979 tôi vào điều trị bệnh dạ dày trong quân y viện 108 ở Hà Nội. Buồng bệnh trên tầng gác có hai giường, toalet ở phía sau ngăn cách với buồng bệnh bằng một bức tường vách.
            Tối 17 tháng 2, anh bạn nằm cùng phòng đã đỡ, xuống vườn gặp người nhà vào thăm. Tôi bật đèn ngồi trên giường đọc báo thì nghe đài báo tin bọn Tàu xua nhiều sư đoàn tràn sang phía bắc nước ta giết hại nhiều phụ nữ trẻ em, đốt phá nhiều làng mạc thị trấn vùng biên. Nghe tin tôi tức uất người! Nhớ lại chuyện Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn đã cùng Lý Ban đã đóng góp biết bao công sức cho cách mạng Trung quốc thuở còn trứng nước, tham gia cuộc Vạn lí Trường chinh đẫm máu…Nhớ tới 22 chiến sĩ của ta hi sinh vì cách mạng Trung quốc trong chiến dịch Thập vạn Đại sơn, di cốt hiện còn nằm trong Nghĩa trang Liệt sĩ Thủy Khẩu tỉnh Quảng Tây…Thế mà chúng nó tung quân  giết hại nhân dân ta. Đồ vô ơn bạc nghĩa, lấy oán trả ân! Càng nghĩ càng căm uất…
Bỗng thấy bụng nôn nao, ruột gan dạ dày cuồn cuộn như sắp vọt hết ra ngoài. Tôi chạy vội vào toalet. Mới qua được cửa thì từ mồm ộc ra một ngụm máu tươi,  một ngụm nữa, rồi một ngụm nữa, ngực áo đỏ lòm. Thấy đầu ngây ngây choáng váng tôi biết mình sắp ngất nhưng vẫn còn nghĩ được lơ mơ “Nằm trong này chắc chết. Không ai trông thấy mà cứu mình”.
Tôi lết bốn chân bò dần ra phòng ngoài, ngồi tựa vào bức tường vách, nhìn ra cửa... Sắp lả đi thì thấy bóng người thấp thoáng ngoài hành lang mờ mờ ánh đèn, tôi ú ớ gọi, cố vẫy vẫy mấy ngón tay. Người khách đến thăm bệnh nhân quay đầu nhìn rồi chạy trở lại phòng trực ở đầu hành lang. Vài giây sau cô y tá Giao Hưởng và một y sĩ nam trong kíp trực chạy vào bế xốc tôi lên cáng, đặt nằm ngả đầu xuống thấp, dặn “Giữ đầu thấp cho máu chảy xuống nuôi não không thì khốn đấy”.
Giao Hưởng lẳng đôi dép dưới chân, chạy ù xuống cầu thang đến kho máu lĩnh một túi nylon máu khô mang về pha rồi truyền ngay vào tĩnh mạch. Lát sau y sĩ đo thấy bắt đầu có huyết áp tuy rất thấp. Tôi đã tỉnh, ngước nhìn lên túi máu treo trên cọc truyền thấy lờ mờ dòng chữ Product of Cuba (Sản phẩm của Cuba). “Thế là trong tim mình có máu của người Cuba anh em”. Ý nghĩ ấy làm tôi  khỏe hẳn lên. Nhớ đến chuyện Fidel Castro năm 1973 vào thăm vùng Quảng Trị giải phóng đã phất cao lá cờ Mặt trận và tuyên bố: “Vì Việt Nam Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Nghĩ  lan man: chủ nghĩa quốc tế vô sản không phải khẩu hiệu suông mà có thật trong những người cách mạng chân chính không bị chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỉ chi phối. Như Che Guevara chẳng hạn…(Tôi có tật hay nghĩ lan man về đủ thứ chuyện trên đời, đánh chết cũng không chừa!)
Bác sĩ Vũ Thanh chủ nhiệm khoa Ngoại đang ăn cơm tối với vợ con nhận được tin qua điện thoại “Có bệnh nhân xuất huyết dạ dày nặng, không còn huyết áp”. Bác sĩ buông ngay bát cơm đang ăn, nhẩy lên xe đạp. Tôi được cáng lên bàn mổ, nằm đè lên tay trái quặt dưới lưng, tay phải và hai chân bị đai cao su ghì chặt xuống bàn. Bác sĩ gây mê hồi sức Tiêu Tương úp chiếc mặt nạ cao su đen sì lên mặt tôi, bảo:            
-Anh đếm đi, đếm từ 1 đến 10.
 Tôi đếm đến 4 hoặc 5 thì chẳng biết gì nữa.

             Gần trưa hôm sau mở mắt ra tôi thấy mình nằm trong buồng hậu phẫu, mồm ngậm một ống cao su dài buông xuống chậu men dưới gầm giường, mạn sườn gắn một ống dẫn lưu thọc vào trong bụng. Bụng chướng to, rất đau. Trên bụng đắp tờ giấy bản loang lổ vài vết máu.
Chiều hôm ấy tôi được chuyển lên khoa nội. Liếc mắt đọc trộm bệnh án trên tay bác sĩ Phát chủ nhiệm khoa thấy bác sĩ Vũ Thanh ghi: “Mổ lúc 19h03, đóng ổ bụng lúc 23h. Vết loét ở môn vị làm đứt động mạch, khi mở ổ bụng máu vẫn rỉ rả. Cắt bỏ hai phần ba dạ dày”.
Bác sĩ Phát kiểm tra vết mổ, đo huyết áp. Tôi hỏi sao không băng bó cẩn thận mà chỉ đắp giấy bản, Phát lắc đầu:
-Kho bông băng của viện có bao nhiêu chuyển hết lên biên giới rồi. Thiếu thốn quá, phải ưu tiên các đơn vị chiến đấu trên ấy. Anh yên tâm, giấy bản đã khử trùng cẩn thận.
  Bác sĩ Phát tiếp:
-Đau lắm phải không? Ai cũng thế, khi thuốc mê tan hết thì các vết mổ rất đau. Tôi sẽ tiêm một mũi thuốc tê cho anh đỡ đau.
            Tôi nghĩ bụng: “Thương binh trên biên giới đang cần bông băng và tất nhiên cần cả thuốc giảm đau. Mình không tiêm để có thêm thuốc gửi lên cho anh em. Thêm tí nào hay tí ấy”.
Tôi không nói hết với Phát điều vừa nghĩ, chỉ nói:
-Mình thử không tiêm xem có chịu được không. 
 Bác sĩ Phát gật đầu:
-Lúc nào không chịu nổi nữa thì bảo, y tá trực luôn sẵn sàng tiêm cho anh.
Đau thì quả là rất đau, nhưng cố chịu thì vẫn được. Mà lại có lợi ở chỗ: nhu động ruột chóng trở lại bình thường. Nhờ vậy, ngay trong đêm tôi đã tống được hết khí methane trong bụng, sáng hôm sau đã có thể vịn thành giường đi loanh quanh dăm bẩy phút. Hai bệnh nhân mổ trước tôi một ngày nhưng do tiêm thuốc tê để giảm đau nên mãi hôm sau mới trung tiện được.
Cô y tá vừa thay tờ giấy bản đắp vết mổ trên bụng tôi vừa kể: anh nôn ra nhiều máu quá, cống buồng tắm to thế mà máu đông lại làm tắc tị, em dùng cái que sắt dài hơn thước tây thông mãi mới hết tắc. Mất nhiều máu thế mà anh chẳng sao cả! Tài thật!
Đâu phải do tôi có tài! Đó là nhờ các nhân viên bệnh viện từ y tá đến các bác sĩ đều có tinh thần trách nhiệm rất cao nên tôi mới thoát cơn nguy khốn. Không có những Thầy thuốc như mẹ hiền ở viện quân y 108 chắc chắn hôm ấy tôi không được nằm trong phòng bệnh ấm cúng mà đã xuống nhà lạnh rồi! Bất chợt một ý nghĩ lóe lên trong đầu: mình suýt chết không phải vì bệnh mà vì thằng bành trướng Trung quốc! Nó làm tôi tức hộc máu tươi!
Tự dưng nhớ lại truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao kết thúc bằng câu nhân vật Hoàng chửi “Tiên sư anh Tào Tháo”, tôi buột miệng chửi “Tiên sư thằng bành trướng!”

Chiếc loa nhỏ gắn trong phòng truyền bản tin của đài Tiếng nói Việt Nam về tình hình chiến sự trên biên giới, ca ngợi tinh thần chiến đấu của dân quân, bộ đội địa phương thua kém địch về trang bị nhưng hơn hẳn chúng về tinh thần chiến đấu, lại khéo lợi dụng địa thế hiểm trở gây cho quân xâm lược nhiều thiệt hại. Nhưng chúng vẫn tiến sâu xuống phía nam.Tên Dương Đắc Chí nguyên phó tướng của Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều Tiên chỉ huy cánh quân xâm lăng Lai Châu, Hà Giang, Lao Kai. Tên Hứa Thế Hữu ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc tư lệnh quân khu Quảng Châu là Tổng chỉ huy chiến dịch, xua quân theo chiến thuật “biển người”  ào ạt tấn công Cao Bằng, Lạng Sơn, ngày 22-2-1979 chiếm Đồng Đăng, ngày 27-2 tung 6 sư đoàn tấn công Lạng Sơn và chiếm được thành phố ngày 4-3-1979.
Bệnh nhân băn khoăn: bộ đội chủ lực của ta đâu? Liệu bọn Tàu có tới được Hà Nội?
Chừng hơn một tuần sau, thương binh từ mặt trận biên giới vào 108 điều trị cho biết: sau một số ngày bị động, quân ta đang phản công trên khắp mặt trận, chặn đứng quân địch và gây cho chúng những tổn thất nặng nề.
Một tháng sau khi tràn qua biên giới nước ta bọn bành trướng phải rút hết về nước. Trước khi cút, chúng phá tan hoang tất cả nhà cửa, cầu cống, biến mọi nơi thành những đống đổ nát.
Hồi ấy “Đài Phát thanh Mạc-tư-khoa” hầu như không nói đến vai trò của Liên Xô trong chiến thắng của quân và dân ta. Các bạn tôi ở bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Kĩ thuật, văn phòng Bộ Quốc phòng v.v. cũng chỉ nói sơ sơ về “Bí mật quốc gia” ấy.
Ba mươi hai năm sau, ngày 17-2-2011 đài “Tiếng nói nước Nga” mới kể lại những chi tiết về “Ba mươi ngày chiến tranh và các cố vấn Liên xô”.
                                     …Ngày 17 tháng Hai năm 1979 là một ngày bi thảm đối với nhân dân Việt Nam.
Vào ngày này 32 năm trước, quân đội Trung Quốc đã vượt qua biên giới Việt Nam. Bắc Kinh muốn "trừng phạt Hà Nội” vì Việt Nam đã tham gia vào việc lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia.
Lực lượng Trung Quốc xâm lược bao gồm 7 quân đoàn, lên đến 600.000 người. Phía Việt Nam lúc đó chỉ có một sư đoàn quân chủ lực, một sư đoàn quân địa phương, lính biên phòng và dân quân tự vệ, với số lượng vũ khí không nhiều, gồm có pháo, súng cối và vũ khí chống tăng.
Ngày 18 tháng Hai, chính phủ Xô viết đã đưa ra một tuyên bố, trong đó, ngoài những điều khác, có nêu rõ: "Liên bang Xô viết sẽ thực hiện các cam kết theo Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam". Hiệp ước này được ký kết tại Matxcơva ba tháng trước đó.
(Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 3.11.1978. Một trong những thỏa thuận quan trọng nhất của Hiệp định ghi: “Trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước” SĐM chú thích).
Để  hỗ trợ Việt Nam và hướng sự chú ý của quân đội Trung Quốc vào phía nam Liên Xô, 29 sư đoàn bộ binh của quân đội Liên Xô gồm 250 nghìn người, với sự hỗ trợ của không quân đã được điều đến khu vực gần Mãn Châu ở biên giới Xô-Trung. 
Đồng thời, lãnh đạo Liên Xô đã gửi bổ sung thêm cho Việt Nam một nhóm cố vấn quân sự.
Một trong những nhà lãnh đạo của Hiệp hội các Cựu chiến binh Nga trong chiến tranh Việt Nam, đại tá Gennady Ivanov nhớ lại:
Sáng 19 tháng 2, vào ngày thứ ba của cuộc xâm lược, một nhóm các cố vấn quân sự của Liên Xô đã bay tới Hà Nội, gồm các vị tướng có kinh nghiệm nhất, đứng đầu là đại tướng Gennady Obaturov. Ngay sau khi đến nơi, họ lập tức gặp ban chỉ huy tối cao Quân đội nhân dân Việt Nam.
Các cố vấn  quân sự Liên Xô không chỉ nắm tình hình thực tế qua cuộc tiếp xúc với bộ trưởng quốc phòng Văn Tiến Dũng và tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, mà còn ra mặt trận, lên tuyến đầu nơi quân đội Việt Nam bảo vệ Tổ Quốc. Tại đó, họ đã rơi vào một trận pháo kích mạnh của quân Trung Quốc, nhưng may mắn  không ai bị thương. Tuy nhiên, đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô vẫn không tránh được tổn thất. Đầu tháng Ba năm 1979, sáu cố vấn Liên Xô đã hy sinh tại Đà Nẵng trong tai nạn máy bay, khi đang giúp Việt Nam.
Tại cuộc họp kéo dài 3 giờ đồng hồ ngày 25 tháng Hai với ông Lê Duẩn, đại tướng Obaturov đề xuất di chuyển lực lượng quân chủ lực được huấn luyện tốt hơn từ Campuchia về mặt trận phía Bắc. Đề xuất này, cũng như một loạt đề xuất khác do đại tướng Liên Xô đưa ra, đã được phía Việt Nam thông qua.
Theo  lệnh của tướng Obaturov, các phi công lái máy bay vận tải quân sự Xô Viết đã chuyển cánh quân Việt Nam từ Campuchia về hướng mặt trận Lạng Sơn, khiến cho tình hình lập tức thay đổi  theo hướng thuận lợi cho Việt Nam.
Tướng Obaturov cũng đã gửi các lãnh đạo Liên Xô công văn yêu cầu khẩn cấp viện trợ cho Việt Nam vũ khí và trang thiết bị bằng đường hàng không.
Các tổ chức quân sự Matxcơva nhanh chóng và tích cực đáp ứng mọi yêu cầu của nhóm cố vấn Liên Xô tại Việt Nam.
 Đại tá Gennady Ivanov nói tiếp. -  Trong thời gian ngắn nhất, quân đội nhân dân Việt Nam đã nhận được bằng máy bay vận tải quân sự tất cả mọi thứ cần thiết để chống lại kẻ thù. Việt Nam đã được viện trợ tên lửa Grad[1], những trang bị kĩ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc, tình báo và các phương tiện hỗ trợ chiến đấu khác.
           Các biện pháp đó đã góp phần làm cho các cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc bị sa lầy. Một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu không cho đối phương tiến lên quá 30 km kể từ biên giới.
Những kẻ xâm lược đã mất hơn 62.000 sĩ quan và binh lính, 280 xe tăng và xe bọc thép, 118 khẩu pháo và súng cối cùng một số máy bay. Ngày 05 tháng Ba năm 1979, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Ngày 18.3, chiến sự hoàn toàn chấm dứt.

           Đài Tiếng nói nước Nga ngày 16-12-2012 cho biết thêm:
                        …Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc vượt biên giới Việt Nam khi đó  còn chưa có thời gian để chữa lành những vết thương do bọn xâm lược Mỹ gây ra, Trung quốc đã phát động cuộc tấn công quy mô lớn trên địa bàn các tỉnh phía Bắc của nước cộng hòa. Theo chính phủ Trung Quốc, mục đích của hành động này  là "trừng phạt" Việt Nam vì đã tham gia lật đổ chế độ Pol Pot ở Campuchia.
Tại thời điểm đó 85% Quân đội Nhân dân Việt Nam đang hiện diện ở Campuchia. Vì vậy, đáp trả những kẻ xâm lược chỉ có một bộ phận quân thường trực, một bộ phận lực lượng quốc phòng địa phương, đơn vị bộ đội  biên phòng và dân quân tự vệ. Lúc này lãnh đạo Việt Nam chưa biết rõ lực lượng tiến hành cuộc xâm lược, cũng như hướng tiến quân của Trung Quốc.
Trong tình hình đó, Liên Xô đã hỗ trợ đầy đủ cho Việt Nam. Nhằm lôi kéo quân đội Trung Quốc về phía Nam Liên Xô, 29 sư đoàn cơ giới của quân đội Liên Xô với sự hỗ trợ của không quân đã được điều tới biên giới Xô-Trung trong khu vực Mãn Châu.
Để bảo vệ Việt Nam trước những hành động của Hạm đội hải quân Nam Trung Quốc, 30 tàu chiến của Liên Xô được tập trung tại những khu vực chiến lược quan trọng của Biển Đông.
Một nhóm các cố vấn quân sự Liên Xô đã được gửi thêm đến Việt Nam. Nhóm được thành lập tại Bộ Tổng tham mưu Bộ Quốc phòng Liên Xô vào đầu tháng Hai năm 1979, theo khuyến nghị của Tổng cục trưởng Tình báo, người đã từng cảnh báo về khả năng xẩy ra cuộc tấn công  của Trung Quốc vào Việt Nam. Trong số những cố vấn đến nước Việt Nam có cả các chuyên gia trinh sát. Lãnh đạo họ là Thiếu tướng Evstafi Melnichenko, được bổ nhiệm làm cố vấn của ông Phan Bình, chỉ huy bộ phận tình báo trong bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Trung tướng Viktor Demyanenko, cựu cố vấn của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại thời điểm đó kể lại:
Họ đã làm việc với các điệp viên để thu thập những dữ liệu cần thiết. Họ nhận được những thông tin thú vị về thành phần của quân đội và lực lượng xâm lược qua những quyết định mà Chính phủ Trung Quốc đã thông qua.
Kết quả công việc chung của trinh sát Liên Xô và Việt Nam là có thể nhanh chóng xác lập rằng các lực lượng xâm lược có khoảng 600.000 người, bộ phận thường trực của Quân đội Nhân dân Việt Nam trên các biên giới phía Bắc của nước cộng hòa đang phải chiến đấu trong vòng vây, và đòn tấn công chính của Trung Quốc  sẽ giáng vào Lạng Sơn để mở đường tới Hà Nội.
Dựa trên thông tin tình báo này, người đứng đầu nhóm các cố vấn Liên Xô, tướng Gennady Obaturov họp với Tổng bí thư Lê Duẩn đề nghị chuyển lực lượng thiện chiến nhất của Quân đội Việt Nam từ Campuchia sang mặt trận phía Bắc. Ông cũng gợi ý các mục tiêu cụ thể trên con đường quân xâm lược tấn công để bố trí tên lửa "Grad" của Liên Xô vừa chuyển giao cho Việt Nam trước đó chưa lâu. Và ông giới thiệu với nhà lãnh đạo Việt Nam kế hoạch các cố vấn Liên Xô lập ra về việc đưa các đơn vị thường trực Việt Nam ra khỏi vòng vây của Trung Quốc.
Những đề nghị này được chấp nhận. Việc thực hiện các kế hoạch đó ngay lập tức thay đổi tình hình  mặt trận theo hướng thuận lợi cho Việt Nam. Các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam không cho kẻ thù tiến sâu hơn 30 km kể từ biên giới. Ngày 05 tháng 3, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, ngày 18 tháng 3 chiến sự hoàn toàn chấm dứt.
 Một lần nữa, như trong cuộc đấu tranh chống xâm lược Mỹ vài năm trước đó, Việt Nam đã bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ của mình”.                                      
                                                                        SĐM (songdepmai@gmail.com)





[1] Tổ hợp pháo phản lực bắn mỗi loạt 40 quả đạn 122mm, tầm bắn xa 21km, mỗi loạt đạn trùm lên diện tích 40 000m2. Pháo đặt trên xe tải có tầm hoạt động 1 400km, tốc độ di chuyển 85km/h. Pháo có khả năng tiêu diệt mọi mục tiêu trên mặt đất kể cả xe tăng, lô cốt. Loại gắn tên lửa mới có tầm bắn xa 40km (gấp đôi loại cũ).

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

NĂM NGÀY VỚI ĐẠI TƯỚNG TỔNG TƯ LỆNH


 Khoảng giữa tháng 4 năm 1968 Ban Chỉ huy đơn vị tôi -đóng trên đảo Kế Bào- nhận được bức điện tối mật của bộ Tư lệnh Quân khu: “Chuẩn bị đón anh Văn. Phải đảm bảo tuyệt đối bí mật tuyệt đối an toàn”. Chúng tôi rất mừng được đón tiếp người anh Cả kính mến của quân đội, và cũng vô cùng lo lắng. Lo nhất là vấn đề bảo đảm an toàn, phần vì trên đảo có cảng của Hải quân và một cái cầu trên đường độc đạo đến quân cảng là những mục tiêu hầu như ngày nào cũng bị máy bay Mĩ đến thả bom, bắn phá, phần vì đảo này khá lớn, có rừng có núi, nên rất khó kiểm soát người từ nơi khác tới. Trong những năm 1964-1966 một trung đoàn công binh Trung quốc đến xây dựng công sự trên đảo, chúng công khai truyền bá Mao tuyển, phân phát huy hiệu Mao Trạch Đông, ngấm ngầm cổ vũ dân các vùng xung quanh nhận là con cháu họ Mao, khuyến khích ăn mừng quốc khánh ngày 1 tháng 10 thay cho ngày 2 tháng 9. Rất có thể tay sai bọn bành trướng còn lẩn khuất đâu đây…
Mọi việc chuẩn bị vừa xong thì xe command-car chở anh Văn tới. Theo yêu cầu của anh, Tư lệnh Quân khu cử một cán bộ tham mưu thông thạo đường xá cùng đi trên xe để dẫn đường, ngoài ra không có thư kí riêng, bác sĩ riêng, không có vệ sĩ, cần vụ, liên lạc đi theo…Không như nhiều ông tướng khác, dù chỉ là thiếu tướng nhưng đi đâu cũng tiền hô hậu ủng rầm rầm rộ rộ, đến nơi phải có hàng rào danh dự đón chào…
Mấy thày trò đang ngồi uống nước thì một toán lính trẻ từ bãi biển trèo lên, tay xách những xô đầy cua bể, mực ống, cá thu mới đánh bắt để chuẩn bị bữa chiều. Anh Văn vẫy tay gọi lại, vui vẻ xem từng món “chiến lợi phẩm” của lính rồi nói: “Các cậu chiêu đãi mình thịnh soạn quá! Đừng vẽ vời mất nhiều thì giờ công sức vì mình.”
Tôi trình bày:
- Chỉ dăm ba anh em không trực chiến đi xuống bãi biển vài tiếng đồng hồ là có đủ chất tươi mang về cải thiện cho cơ quan đoàn bộ. Ở đây đã thành lệ từ lâu rồi ạ.
-Thế thì được- anh Văn nói.
Bữa ăn chiều hôm ấy rất vui, chúng tôi chỉ kể những chuyện săn bắt hải sản, các hành vi  chống xét lại, chống sùng bái cá nhân “rởm đời” của bọn bành trướng, cách chúng tôi đối phó với bọn chỉ huy công binh Trung quốc…làm anh Văn cười thoải mái.. Cũng có lúc sắc mặt anh nghiêm lại. Như khi tôi kể chuyện bọn Tàu xúi giục dân trong vùng bỏ lễ kỉ niệm quốc khánh Việt Nam ngày 2 tháng Chín thay bằng quốc khánh Trung quốc ngày 1 tháng Mười, thay ảnh Bác Hồ bằng ảnh Mao. Anh nói:
-Chiến thuật của bọn chúng là kết hợp giữa “ngoạm từng miếng” với “gặm nhấm dần”. Khi có cơ hội chúng sẽ tạo ra cớ này cớ kia để dùng quân sự đánh chiếm đất đai của chúng ta, khi chưa tạo được cớ để gây chiến thì  hàng ngày hàng giờ dùng các thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội làm suy yếu ta và bành trướng thế lực của chúng trên đất nước ta. Các cậu và các thế hệ con cháu sau này không được một phút lơ là mất cảnh giác.
Tuy có rất nhiều điều muốn hỏi, nhiều thắc mắc đang muốn được giải đáp nhưng sợ anh đi đường mệt nên chúng tôi rút lui sớm để anh đi nghỉ. Tuy thế, cho đến khuya tôi vẫn nghe chiếc đài bán dẫn của anh thì thầm…(tôi nằm chắn ở cửa hầm cách giường anh chừng dăm mét, lữ đoàn trưởng Khánh nằm chắn cửa hầm bên kia).
Sáng hôm sau không “nhịn” được nữa, tôi hỏi:
-Thưa anh, dạo này trên đài không thấy đưa tin dồn dập về chiến thắng của ta trên chiến trường miền Nam như mấy tháng trước. Có phải ta tạm nghỉ để chuẩn bị đợt tấn công mới không?
Anh Văn trầm ngâm một lát rồi nói:
-Không còn yếu tố bất ngờ…Đã khó càng thêm khó…Lực lượng tại chỗ của Mĩ ngụy còn rất mạnh, bộ máy kìm kẹp của chúng gần như còn nguyên vẹn…Phải rất tỉnh táo không được chủ quan, phải cân nhắc nhiều lắm kĩ lắm mới được…
Anh ngừng lời, rồi tiếp:
-Bác Hồ rất quan tâm đến việc giảm bớt tổn thất của quân dân ta trên chiến trường nên ngày 5 tháng Chín năm ngoái trước khi sang Trung quốc chữa bệnh Bác đã duyệt kế hoạch mở chiến dịch Khe Sanh nhằm thu hút, kìm chân một lực lượng lớn quân Mĩ để giảm bớt gánh nặng, tạo thêm thuận lợi cho quân dân miền Nam.
Như các cậu đã thấy, ngày 21 tháng 1-đúng 10 ngày trước khi bắt đầu cuộc Tổng tấn công trên miền Nam quân ta đã giáng đòn sấm sét xuống cứ điểm Khe Sanh  rồi liên tiếp tấn công nhiều cứ điểm khác. Không những bộ đội ta đã cầm chân bọn Thủy quân Lục chiến mà còn buộc địch phải sử dụng con chủ bài Sư Kị binh bay số 1 là đơn vị có sức cơ động cao, hỏa lực mạnh và thiện chiến nhất của Mĩ mở chiến dịch Pegasus đầu tháng Tư vừa rồi hòng giải vây Khe Sanh. Nói cách khác, mặt trận Khe Sanh đã và đang chia lửa rất hiệu quả cho miền Nam. Nhưng không vì thế mà trong ấy hết khó khăn…Khó khăn lớn lắm. Trong đó chúng còn rất đông.

Tôi hiểu đây là vấn đề chiến lược ngoài phạm vi tìm hiểu, bàn luận của mình nên không dám hỏi thêm. Hơn nữa, trong mấy ngày sau đó anh Văn hình như suy nghĩ căng thẳng lắm, sức ăn giảm hẳn, khi ngồi ăn anh không hỏi chuyện chúng tôi như những ngày trước. Chiều ngày thứ tư một cán bộ của Quân khu đến đơn vị. Sáng hôm sau anh Văn báo tin anh về Hà Nội. Anh vỗ vai tôi, nói:
-Rất tiếc không ở lại đây với các cậu lâu hơn được. Cám ơn nhiều. Chúc tất cả mạnh khỏe, đánh thắng mọi kẻ thù.
Xe chở anh Văn rời Sở chỉ huy của đơn vị tôi ngày 19 tháng 4 năm 1968.

Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 tình hình chiến sự vẫn sôi động xen kẽ với những khoảng lặng. Đầu tháng 5 ta chiếm khu vực Minh Phụng, Bình Thới, tấn công ngã tư Bẩy Hiền, pháo kích nhiều mục tiêu, cuối tháng 5 trận Khâm Đức diệt nhiều địch.
Ngày 21-1 chi khu quân sự Hướng Hóa vào tay quân Giải phóng, hơn 300 lính Mĩ bị tiêu diệt và  bắt sống. Ngày 7-2 Làng Vây bị tấn công lần 2, gần một nghìn Mĩ ngụy bị tiêu diệt. Vòng vây thắt chặt quanh cứ điểm Khe Sanh. Địch muốn giải tỏa vòng vây bằng cách điều thêm quân tới ứng cứu nhưng do phải đối phó chật vật với các cuộc tấn công vào thành thị của quân dân miền Nam nên chúng không có đủ lực lượng cần thiết. Đầu tháng 4 Mĩ buộc phải đưa sư đoàn Kị binh bay và sư đoàn dù ngụy mở cuộc hành quân “Ngựa bay” nhưng chỉ sau 10 ngày đã có 3200 tên phần lớn là Mĩ bị diệt, 38 máy bay bị bắn rơi. Bị thiệt hại nặng ở đây cùng lúc với những thiệt hại lớn tại các thành thị miền Nam, ngày 26-6 đại tướng Abrams chỉ huy quân Mĩ tại Việt Nam –thay tướng Westmoreland bị cách chức- ra lệnh mở chiến dịch Charlie rút quân Mĩ khỏi Khe Sanh. Trên đường tháo chạy chúng tiếp tục bị quân ta chặn đánh quyết liệt, chỉ trong 7 ngày cuối tháng 6 có thêm 700 tên bị lọai khỏi vòng chiến, 9 máy bay bị bắn rơi.
Sau 170 ngày đêm chiến đấu cực kì anh dũng chống các lực lượng tinh nhuệ nhất của địch sử dụng những vũ khí hiện đại nhất và lượng bom tương đương 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima quân dân trên chiến trường Quảng Trị đã diệt 11 900 tên địch (có hơn 10 000 quân Mĩ, tỉ lệ thương vong của chúng cao hơn trong Thế chiến 2), hủy và thu một số lớn vũ khí thiết bị quân sự, giải phóng một vùng rộng lớn phía tây Quảng trị với một vạn dân. Dự định lập hàng rào điện tử Mac Namara vỡ vụn. Kế hoạch chiến lược cắt đứt đường Hồ Chí Minh phá sản.
Thắng lợi to lớn trong chiến dịch nghi binh Khe Sanh của quân và dân Quảng Trị đã chia lửa rất hiệu quả với quân dân miền Nam, góp phần giảm bớt khó khăn và tổn thất,  đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ buộc chúng phải kí hiệp định Paris.
Vị tổng chỉ huy trận đại thắng Điện Biên phủ năm 1954 lại chỉ huy trận đại thắng Điện Biên phủ thứ 2 năm 1968 ở Đường 9-Khe Sanh.
Tháng 8 ta đồng loạt tấn công 27 thành phố, thị xã, trong đó có Đà Nẵng, Tam Kì và 100 thị trấn. Tháng 9 chiến dịch Tây Ninh có thể coi là chiến dịch kết thúc cuộc Tổng tấn công.
x x x
Tháng 12 năm 68 tôi được lệnh vào công tác ở binh đoàn Trường Sơn. Vào tới nơi, đại tá Vũ Xuân Chiêm chính ủy binh đoàn cho biết: tôi sẽ vào binh trạm Sông Bạc thay chính ủy Tuấn mới hi sinh.
Tôi theo giao liên đi về binh trạm đóng sở chỉ huy ở tỉnh Sê Kông trên đất Lào, cùng vĩ tuyến với huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam. Càng vào sâu càng thấy rõ cái giá phải trả cho thắng lợi của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân. Trên đường giao liên nườm nượp nhiều tốp từ các chiến trường đi ra, số đông là thương binh bệnh binh chống gậy hoặc do giao liên cáng trên võng đưa ra vùng tự do điều trị. Tại các trạm có nhiều chiến sĩ lạc đơn vị đang chờ bắt liên lạc, nhiều cán bộ cơ sở bị lộ phải tạm lánh chờ cấp trên bố trí công tác ở địa phương khác. Hàng nghìn quân đang trên đường vào phải dừng lại vì mọi con đường xuống đồng bằng đều bị địch chặn cứng. Số người trên tuyến giao liên tăng cao ngoài dự kiến, lương thực thực phẩm dự trữ không đủ, ngoài hậu phương đưa vào không kịp nên khẩu phần gạo phải hạ xuống 300g người/ngày. Nhiều đoàn hành quân ra từ B2 dọc đường phải ăn củ mì (củ sắn) cõng cơm. Sắn đào ở các nương rẫy ven đường theo qui ước “ăn củ trả cây”, một qui ước bất thành văn nhưng mọi người đều tự giác tuân thủ rất nghiêm: đào lấy củ rồi phải chặt hom trồng lại cây để rừng sắn cứu đói trên Trường Sơn không bao giờ cạn kiệt. Chỉ huy các trạm giao liên cho biết chưa bao giờ đông đúc chật chội tới mức các bãi không còn chỗ mắc võng.
Trên đường có nhiều cán bộ dân chính đảng được cử ra Bắc học, có cả những bí thư tỉnh ủy, những cán bộ cấp khu cấp quân khu ra báo cáo với Trung ương. Trong những đêm nằm chung sàn tôi được nghe kể nhiều về tình hình khó khăn của các đơn vị các địa phương sau ba đợt Tổng tấn công năm 1968.
Qua các câu chuyện của họ, tôi cảm thấy tuy mọi người đều xác nhận ta đã  thu được thắng lợi rất lớn, nhất là về chính trị, buộc Johnson phải tuyên bố chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với Việt nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng…nhưng người nào cũng nói nhiều về  những tổn thất to lớn của ta, đều tỏ ý rất lo lắng về triển vọng khôi phục lực lượng, tóm lại đều cho rằng cái giá phải trả là quá đắt.
Nghe những lời lẽ ấy tôi rất phân vân. Khi còn ở miền Bắc, nghe tin tức qua đài Tiếng nói Việt Nam, đọc trên các báo tôi cho rằng ta đã thắng rất ròn rã, ước mơ giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà sắp thành hiện thực. Giờ đây tôi tự hỏi: sự thật là thế nào?
Dần dần qua tiếp xúc với  nhiều người trong cuộc và tận mắt nhìn thấy những hình ảnh chân thật không tô vẽ tôi mới đánh giá được toàn diện cuộc Tổng công kích Tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân. Rất lâu về sau lại đọc trên giấy trắng mực đen những bài viết chính thức xác nhận những khó khăn và khuyết điểm trong chỉ đạo của các cấp.
            Thiếu tướng Huỳnh Công Thân Anh hùng LLVT viết trong hồi kí:
           Về mặt quân sự đơn thuần, thì không thể hạ quyết tâm chiếm Sài Gòn bằng cách đánh và bằng lực lượng như đã diễn ra mà phải kết hợp với tổng khởi nghĩa.  Nhưng vì sao mũi chính trị lại không mở ra được?  Tình hình quần chúng Sài Gòn và sinh viên, học sinh như thế nào mà lúc đó lại có nhận định: hàng triệu quần chúng đang sục sôi khí thế cách mạng sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập tự do!  Khi chúng tôi vào Sài Gòn, thực tế tình hình không phải như thế.  Quần chúng ghét chế độ Mỹ - Nguỵ bóp nghẹt dân sinh, dân chủ nhưng chưa đến mức "sục sôi" và chưa "sẵn sàng hy sinh tất cả" để có thể xuống đường đối đầu với súng đạn địch lật đổ nguỵ quyền trung ương Sài Gòn, thiết lập chính quyền cách mạng.  Sinh viên, học sinh là lực lượng có tổ chức nhưng lúc đó không tập hợp được đội ngũ.  Sau tiến công đợt một, mọi vấn đề đã bộc lộ rất rõ, tổ chức lực lượng và cách đánh ấy hoàn toàn không phù hợp, không thể tiến đến các mục tiêu, thương vong của ta rất lớn.  Không hiểu vì sao khi tiến công đợt hai trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với đợt một, ta vẫn duy trì tổ chức, trang bị và cách đánh như cũ?
          Trong cuộc đời chỉ huy chiến đấu của tôi, Tết Mậu Thân năm 1968 là giai đoạn căng thẳng nhất.  Không phải do tính chất ác liệt của các trận đánh, mà chủ yếu là do không giải quyết nổi các mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ với thực lực và biện pháp tiến hành.  Ở vào tình trạng ấy, người chỉ huy như bị bó tay, không còn hành động một các tự tin nữa.
          
Tết Mậu Thân năm 1968 là những ngày tháng, những kỷ niệm và những kinh nghiệm xương máu không thể nào quên được trong mỗi cán bộ, chiến sĩ Long An chúng tôi.  Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân trên toàn miền Nam là hết sức to lớn, góp phần làm cho quân Mỹ và chư hầu phải rút khỏi nước ta.  Nhưng tôi cũng nghĩ như một số đồng chí khác, nếu ta biết dừng lại sau đợt một (đợt Tết Mậu Thân), đưa lực lượng về giữ các căn cứ và vùng nông thôn đồng bằng, sẽ tránh được tổn thất lớn và hậu quả nặng nề trong những năm 1969 - 1970. (Trich cuốn Ở chiến trường Long An. Huỳnh Công Thân. NXB Quân đội Nhân dân).
          
         Võ Văn Dũng ủy viên Trung ương Đảng bí thư tỉnh Vĩnh Long kể lại nhân dịp kỉ niệm 72 năm Nam kì Khởi nghĩa 23-11-2012.
         Sau đợt Tổng tấn công và Nổi dậy mùa xuân Mậu Thân 1968 lực lượng ta ở các tỉnh miền Tây Nam bộ bị tổn thất nặng nên gặp muôn vàn khó khăn bị động trước âm mưu “bình định cấp tốc” của Mĩ ngụy. Cuối năm 1968 ở Tây Nam bộ có 250 xã thì tại 50 xã đảng viên phải li hương,  40 xã chỉ còn mỗi xã 1 hoặc 2 đảng viên, không có chi bộ, 2 phần 3 số ấp không còn ấp đội, số lượng du kích chỉ còn một nửa so với trước, các trung đoàn chủ lực Khu, các tiểu đoàn địa phương quân tỉnh, các đại đội địa phương quân ở các huyện đều bị thiệt hại nặng, tình hình cách mạng tạm thời đen tối.
          
       Theo Ban Tổng kết chiến lược (trực thuộc bộ Chính trị):
       Điều đáng tiếc là sau thắng lợi của đợt 1 các lực lượng vũ trang giải phóng ở miền Nam lại liên tiếp cố mở đợt tấn công thứ 2 (tháng 5-1968) và thứ 3 (tháng 8-1968) khi tính bí mật bất ngờ không còn và lực lượng đã bị tổn thất nặng nề. Ta đã phạm sai lầm lớn về chỉ đạo chiến lược…đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúcđó, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn.(Tổng kết cuộc Kháng chiến chống Mĩ cứu nước-Thắng lợi và bài học. NXB chính trị Quốc gia 1996).
       
        Phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà viện trưởng viện Lịch sử Đảng CSVN viết:
       Chính do sai lầm đó mà chỗ đứng chân của bộ đội chủ lực trên nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam bị thu hẹp, nhiều đơn vị sau khi rút ra khỏi các thành thị đã không còn chỗ đứng chân ở nông thôn đồng bằng, phải rút lên vùng rừng núi, sang bên kia biên giới Việt Nam-Campuchia, rút ra miền Bắc. Tình hình khó khăn về thế và lực của cách mạng đặc biệt  là về quân sự kéo dài sang cả năm 1969 đầu năm 1970.
       Phần lớn cơ sở quần chúng bị khủng bố tan tác vì địch liên tiếp mở các chiến dịch bình định mang tên “Phượng hoàng” do tên thủ tướng ngụy Sài Gòn Trần Thiện Khiêm khởi xướng từ cuối 1966, đến cuối 1967 được CIA chính thức hỗ trợ. Sau Tết Mậu Thân 68, khi hầu hết các cơ sở cách mạng đã tự lộ mình để tham gia cuộc Tổng tấn công, chiến dịch Phượng hoàng gây tác hại rất lớn. Theo thống kê của Mĩ được trích đăng trên Wikipedia“trong năm 1968 có 13 000 cán bộ nằm vùng bị bắt, bị giết, năm 1969 có 19 534 cán bộ nằm vùng bị “vô hiệu hóa”. Nhưng chỉ dưới 10 % là mục tiêu của chương trình này, số còn lại bị gán là người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng… Trong nhiều trường hợp người này vu khống người kia là Việt Cộng để mượn tay quân đội Mỹ giết kẻ mình thù oán”
       CIA vừa trực tiếp bắt, giết vừa tổ chức, huấn luyện cho bọn ngụy từ cấp tỉnh đến cấp xã cách tiến hành cuộc khủng bố. CIA treo thưởng 11 000 USD cho mỗi cán bộ bị bắt sống, vì thế bọn chức dịch từ cấp xã đến cấp tỉnh  bắt rất nhiều người không phải là cán bộ cách mạng để hoàn thành chỉ tiêu CIA giao và nhận tiền thưởng. Ở nhiều nơi, khi bọn Phượng hoàng kéo tới, những hầm bí mật từ nhiều năm nay vẫn an toàn đều bị chúng phát hiện rất nhanh rất chính xác do đã bị lộ trong Tổng tấn công. Thám báo, mật vụ len lỏi khắp nơi. Tình hình hết sức khó khăn…
       Sau chiến tranh, phó thủ tướng Nguyễn Cơ Thạch nhận định: “Chương trình Phượng Hoàng đã phá hoại đến 95 % cơ sở cách mạng ở một số khu vực tại miền nam Việt Nam”.
       Đại tá Trần Trọng Trung –cán bộ Cục Tác chiến bộ Tổng Tham mưu- viết trong cuốn “Lịch sử Cục Tác chiến 1945-2000”(NXB QĐND 2000):
 “Trong giai đoạn đang hình thành kế hoạch chiến lược, cũng như trong những ngày khởi đầu làn sóng đầu tiên của cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường xuyên vắng mặt khỏi Bộ Tổng Hành dinh và không dự nhiều cuộc họp quan trọng của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương, hay các cuộc gặp của tiểu ban năm người trong Bộ Chính trị với Quân ủy Trung ương.”
Tiểu ban năm người do Lê Đức Thọ đề xướng thành lập gồm Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng (thay Nguyễn Chí Thanh được điều vào miền Nam). Với thành phần như vậy, tất nhiên Võ Nguyên Giáp bị thiểu số.
                        Ngày 19-6-2007 đại tá Trần Trọng Trung cho biết “Các nguồn tin của Việt Nam nói tướng Võ Nguyên Giáp phản đối nhiều chi tiết quan trọng trong kế hoạch ngay từ đầu bởi vì theo ông, cuộc tổng khởi nghĩa không thể thực hiện trừ khi quân đội Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Mỹ đã bị làm cho tê liệt”.
                       
       Gần đây nhất, tại cuộc hội thảo "Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam" do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tổ chức trong hai ngày 14 và 15/4/2005 đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định trong tham luận của ông:"Cuộc tấn công Tết Mậu Thân … đã đánh bại một bước ý chí xâm lược của Mỹ trong lúc quân Mỹ đông nhất, mạnh nhất và những cố gắng chiến tranh cao nhất. Chiến lược ‘chiến tranh cục bộ’ bị phá sản, chính quyền Mỹ phải 'phi Mỹ hóa' - 'Việt Nam hóa chiến tranh'."
        Và đại tướng phê bình: 
"do chủ quan duy ý chí, không nắm vững quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng nên đã chủ trương tiến hành tổng khởi nghĩa, bộc lộ toàn bộ cơ sở cách mạng của quần chúng trong chiến tranh ngay khi trên chiến trường còn hơn một triệu quân Mỹ - ngụy và các nước chư hầu. Việc tiếp tục kéo dài tấn công vào các đô thị, chậm chuyển hướng hoạt động về nông thôn trong Mậu Thân 1968 đã gây ra nhiều tổn thất về thế và lực cho cách mạng.          
                                                                                                                                     SĐM