Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

ANH CÔNG NHÂN BẾN PHÀ ĐEN

Tôi rời nhà Minh, về nhà anh chị Kim. Chiều hôm sau đi gặp Nguyễn Anh Bảo kể lại chuyện xẩy ra ở nhà cô me tây làng Hoa và quyết định của tôi. Lúc này Bảo sắp chuyển sang đường dây khác nên sau một hồi suy tính, anh nói:
-Phan sang sinh hoạt với tổ Đỗ Đức Kiên[1]. Anh ấy sẽ lo giải quyết việc này. Ngày mai ta gặp nhau bàn thêm.
Hôm sau ba anh em gặp nhau bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Bảo bàn giao tôi cho tổ trưởng Đỗ Đức Kiên, dặn dò việc thu xếp nơi ăn ở cho tôi rồi đạp xe đi.
Sau vài câu chuyện Kiên nói:
 - Phan đến ở với một công nhân trên bến Phà Đen, một quần chúng rất tốt.   với anh ấy cậu sẽ học được nhiều điều. Cậu đã thoát li gia đình, có điều kiện thuận lợi hơn mình để vô sản hóa, cắt đứt cái đuôi tiểu tư sản vẫn đang lẵng nhẵng sau lưng cánh ta. Mình sẽ báo cho anh ấy biết. Ám hiệu thế này…

Anh công nhân ở trong túp lều chênh vênh trên mặt đê sông Hồng, chiều ngang chừng hơn hai thước tây, chiều dọc vừa bằng mặt đê khoảng gần hai thước, ba mặt quây liếp đan gióng một chi chít lỗ mắt cáo, cửa nhìn ra sông che manh khố tải rách bươm vì gió bấc quật phần phật.
Sau khi nhận ra ám hiệu anh tươi cười đón tôi, nụ cười rộng làm hai má hốc hác càng nhăn sâu thêm. Mái tóc chải lật đã có những sợi bạc. Giọng Nghệ An pha giọng Bắc nghe không nặng lắm.
Anh chỉ tay xuống phía xa dưới chân đê:
- Mình là Tám, thợ tiện trong công binh xưởng Nhật dưới kia.
Trong lều có một ổ rơm, trên đặt tấm chăn sợi Nam Định –loại chăn các chủ đồn điền phát cho phu đi Tân Thế Giới. Cạnh ổ rơm có hai viên gạch một cục đá kê làm đầu rau. Góc lều chất mấy thanh củi bên trên chông chênh vài ống bơ ám khói đen nhẻm.
Anh Tám ngồi xuống sát bên, nắn nắn cánh tay tôi:
- Gầy quá. Cậu bao nhiêu tuổi?
- Mười chín. Anh bao nhiêu? Đã năm mươi chưa ạ?
- Băm tám.
Tôi nghĩ thầm: trông anh già trước tuổi nhiều.
Anh Tám kể chuyện những năm học nghề tiện trên phố. May gặp được người tốt bụng, trong ba năm phụ việc kiêm người ở không công anh được chủ bày vẽ tận tình nên có tay nghề kha khá, kiếm được chỗ làm ở sở Đạn bờ sông của Pháp bây giờ thuộc nhà binh Nhật, chuyên đúc đạn moóc-chi-ê, lựu đạn.
 Trưa hôm đó khi tôi đi công tác về, anh Tám đã đi làm. Nhìn bát cơm đặt cạnh ống bơ nước muối, tôi ngơ ngác nhìn quanh xem có còn món gì nữa không. Rồi cười thầm “Mình thật ngớ ngẩn!” Tuy bụng đói meo nhưng nuốt mãi mới hết bát cơm rưới nước muối. Từ khi không phải ăn cơm tù, lại có một thời được vỗ béo ở nhà anh chị Kim, thần khẩu của tôi đã nhiễm thói kén cá chọn canh. Bây giờ cá chẳng có canh cũng không nên ông ngúng nguẩy!
Tối tôi về, anh Tám vẫn ngồi chờ, cơm chưa dọn ra. Trong một ống bơ nhỏ có chất nước màu nâu bốc mùi thơm chua chua.
Tám xới cơm, nói:
- Nào, chén đi. Đây là tương Nhật, chúng nó vét không hết còn sót trong hũ sành quẳng hố rác. Gạn hết đất cát, nấu chín còn ăn được.
Hai anh em đùn đẩy nhường nhau chỗ cơm còn lại trong cái nồi hộp sắt tây, cuối cùng chia đôi mỗi người một nửa.
Ăn xong, Tám chất mấy gộc củi to vào bếp. Hai anh em ngồi chuyện vãn. Tám hỏi đủ chuyện về tình hình thế giới, về Liên xô, về đường lối cách mạng của Việt Minh. Anh chăm chú lắng nghe, đầu luôn gật gù, mồm lẩm bẩm nhắc lại những từ khó, chắc anh muốn nhập tâm các lời giải thích của tôi.
Lúc đã khá khuya thấy tôi tỏ vẻ mệt, mắt díp lại, anh giục:
- Thôi, đi ngủ. Cậu còn ở đây mình còn có nhiều dịp hỏi thêm. Chẳng mấy khi có một ông thầy ở ngay trong nhà chỉ bảo cặn kẽ như thế này. Lúc bé mình có được học hành gì đâu, bây giờ đọc còn phải đánh vần từng chữ ấy mà.
Hai anh em nằm lên ổ rơm, đắp chung chiếc chăn mỏng vừa hẹp ngang vừa ngắn dọc, Tám ôm ghì tôi, kéo chăn đắp kín người tôi, bỏ mặc lưng anh hở hết ra ngoài…
Nửa đêm tôi sực tỉnh, thấy mình cuộn tròn trong chăn, gió bấc thổi tung manh khố tải che cửa thốc khói bếp bay mù mịt, rất ấm nhưng hơi khó thở. Tám ngồi cạnh bếp củi bập bùng, nghiêng người vào gần ngọn lửa lẩm nhẩm đọc tờ Độc Lập, báo của đảng Dân Chủ.
- Anh không ngủ nữa à? Tôi hỏi.
- Ngủ thế được rồi. Dậy chụm thêm củi cho ấm, nhân thể đọc báo. Chịu khó đọc mỗi ngày một ít, lâu lâu sẽ rành. Ngu dốt cực lắm.

Tôi ngầm hiểu anh đã nhường chăn, thức canh lửa cho tôi ngủ. Tôi tung chăn đến ngồi bên anh.
Tám chỉ vào bản nhạc trên tờ Độc Lập, số ra cuối năm 1944 in bài Tiến Quân ca của Văn Cao:
- Cái này là chữ nước nào?  Cậu đọc được không?
- Không phải chữ đâu ạ. Đây là những ký hiệu âm nhạc, đọc lên thành bài hát.
Tám không hiểu, lắc đầu chán ngán. Tôi giải thích tiếp:
- Đây là bài Tiến Quân ca, bài ca chính thức của Việt Minh. Có những nốt nhạc thế này, mình tập hát dễ hơn. Em hát anh nghe thử nhé.

Đoàn [2]…quân Việt Minh đi,
Chung lòng cứu quốc,
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước.
Đứng đều lên gông xích ta đập tan.
Đường vinh quang xây xác quân thù,
Thắng gian lao đoàn Việt lập chiến khu.
Thề phanh thây uống máu quân thù,
Tiến mau ra sa  trường
Tiến lên, cùng thét lên,
Chí trai là đây nơi ước nguyền..

Tôi say sưa hát hết bài rồi hát lại từ đầu. Tám nghiêng đầu ngồi nghe, tay vỗ đùi đánh nhịp, cuối cùng anh giơ cao hai tay hô to:
Tiến lên! Cùng thét lên!…
Chí trai là đây nơi ước nguyền!
         Hai anh em vui vẻ nắm tay nhau thật chặt.

Một hôm ăn tối xong Tám lấy trong túi dết ra một quả đạn moóc-chi-ê sáng loáng:
- Mình tiện những quả moóc-chi-ê 60 li này cho bọn Nhật.
Anh chỉ vào đuôi quả đạn:
- Ống thuốc phóng gắn vào đây.
Rồi chỉ vào cái hốc sâu miệng tròn xoe trên đầu đạn:
- Thuốc nổ nhồi trong này. Nhồi đầy thuốc rồi vặn chặt kíp nổ vào đây. Mình tiện xong, chúng nó dùng thước kĩ thuật đo từng đoạn từ trên xuống dưới, nếu sai dù chỉ một dem là ốm đòn. Quả này được chúng nó coi là đúng chuẩn.
Anh cười thích thú:
- Nhưng nó vẫn cứ thua mình. Khi tiện sâu vào bên trong khoang thuốc nổ, mình tiện lệch về một phía. Ít thôi, chỉ ba bốn dem. Thế là khi bắn, đạn đi chệch mục tiêu. Sai một li đi một dm mà. Ấy là mình nghĩ thế, cậu thấy có đúng không?
Tôi không biết đích xác nhưng cũng hình dung quả đạn chỗ dầy chỗ mỏng nên đường bay chắc chắn không ổn định. Tôi thành thật khen:
-Hoan hô anh Tám có sáng kiến rất hay!
Tám khoái ra mặt, cười tít mắt làm những vết nhăn nhài quạt hằn sâu thêm. Anh mơ màng:
- Bao giờ nhà máy là của ta, đúc đạn cho ta, tụi này sẽ đúc những quả đạn không sai lệch nửa dem bắn đâu trúng đó…

Mấy ngày nay bữa cơm đã có rau muống luộc chấm nước tương loãng của Nhật, muối vừng được đựng trong đĩa sành, ống bơ nước rau có vắt nước quất, lâu lâu có món ăn tươi bằng…khúc cá khô nướng. Đũa bát đã có đôi, nồi nấu cơm bằng hộp sắt đã thay bằng chiếc cà-mèn “tây quăng” lính Pháp không kịp mang theo khi tháo chạy…Tất cả những tiến bộ vượt bực ấy bào mòn gần hết tờ năm hào còn lại trong túi tôi khi rời khỏi nhà Minh. Vài tuần sau trong túi chỉ còn mấy xu. Tài sản gần cạn mà chỉ cải thiện đôi chút bữa ăn bằng mấy món rẻ tiền. Riêng cơm thì không tăng thêm hột nào. Suất gạo anh Tám lĩnh trong xưởng mỗi tháng vẫn chỉ 12 cân cho hai miệng ăn. Đong thêm gạo chợ đen là chuyện không tưởng…
Tôi thấy không nên ở đây lâu hơn nữa, dù đã quyến luyến Tám, coi như một người anh, một người thầy đã dạy tôi nhiều bài học quí. Anh không một lần nói đến những từ “hữu ái giai cấp” thậm chí có lẽ còn không hiểu mấy từ bác học đó là nghĩa là gì nhưng anh luôn thực hiện trong hành động hằng ngày theo bản chất tự nhiên của anh. Anh không nói đến vai trò, sức mạnh của giai cấp công nhân nhưng đã nghĩ ra cách phá hoại vũ khí của quân thù ngay trong sào huyệt của chúng. Mặc dầu đã lớn tuổi, chữ nghĩa chẳng có bao nhiêu, việc học đối với anh rất vất vả nhưng anh vẫn tranh thủ mọi lúc để học qua những buổi trò chuyện, qua báo chí.
Tôi chưa đọc cuốn sách nào viết về bản chất giai cấp công nhân nhưng qua những ngày sống với anh Tám, tôi đã cảm nhận từ anh truyền sang cho tôi ít nhiều phẩm chất cao quí của giai cấp công nhân: thương yêu đồng chí đồng đội, nhận khó về mình nhường thuận lợi cho bạn; căm thù địch sâu sắc, tìm mọi cách tiêu diệt chúng; không ngừng học hỏi nâng cao trình độ của mình… Những bài học tôi ghi nhớ suốt đời và luôn cố gắng làm theo.
Việc đầu tiên làm theo tấm gương của anh là tôi đi phải khỏi đây để anh khỏi đói rét khỏi khổ thêm vì tôi.
Thế là một lần nữa tôi lại đứng trước câu hỏi:  Đi đâu bây giờ? Sống bằng gì để tiếp tục cuộc chiến giành độc lập tự do cho dân tộc?
                                                                                                                          
SĐM

[1] Tên thật là Phạm Khương (1924-2003) nguyên quán Thái Bình. Năm 1944,  tham gia Việt Minh. Sau 8-1945 giữ chức: Chủ nhiệm Chính trị kiêm Phó Bí thư Trường Sĩ quan Lục quân; Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng. Sau khi tốt nghiệp “bằng đỏ” trường Voroshilov ở Liên xô, về làm Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân. Bị bắt trong vụ án "Xét lại".

[2] Trong bản viết đầu tiên nốt  Rê của Đoàn kéo dài, về sau Văn Cao theo gợi ý của Đinh Ngọc Liên chỉ huy đoàn Nhạc binh, sửa cho nốt này bắt liền vào nốt sau. Lời Tiến quân ca cũng được sửa nhiều chỗ trước và sau khi được quốc hội phê duyệt chính thức là quốc ca.

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

CÔ “ME TÂY” LÀNG NGỌC HÀ



Sau khi anh Kim báo động, Nguyễn Anh Bảo khuyên tôi chuyển đến căn phòng Vân đang thuê. Vân sắp đi dự lớp huấn luyện của Xứ ủy Bắc Kỳ, tôi đến đấy ở cho an toàn.
Căn phòng nằm trong ngôi nhà ở cuối dẫy năm ngôi nhà xây cùng một kiểu ở rìa phố Ngọc Hà phía tây vườn Bách thú. Nhà có ngách đi vào sân, từ sân vào phòng trong không phải qua gian ngoài, đi sớm về tối không phiền hà đến chủ nhà, ngược lại chủ nhà cũng không lo công việc của mình bị người thuê nhà dòm ngó.
Lúc tôi đến, chủ nhà đang nấu cơm. Vân rỉ tai tôi: cô Minh là vợ lính Lê dương, chồng mới chết trận. Cô khoảng ngoài hai mươi, thon thả, hai lọn tóc mai xoăn tròn buông lơi trên má, cặp mắt lá răm đượm vẻ buồn. Vân giới thiệu tôi là Phấn, quê Sơn Tây, học trường Thăng Long, đến thuê nhà thay mình về quê chăm sóc bố đang ốm.
Chủ nhà đặt mâm cơm trưa lên bàn, mời tôi cùng ăn. Ba người vừa ăn vừa nói chuyện, chuyện giá gạo ngày càng cao, chuyện người ngồi trên nóc tàu hỏa bị dầm cầu Ninh Bình gạt xuống sông, máy bay Mĩ ném bom giết chết nhiều người…
Ăn xong Vân đứng dậy, khoác xắc lên vai.
Chủ nhà chậm rãi:
- Tuy cậu Vân đã đưa mười cân gạo và 6 đồng 5 hào tiền nhà tiền ăn cả tháng nhưng cậu chỉ ở nhà có mười ngày. Để tôi trả lại tiền, gạo còn thừa rồi hẵng đi.

Vân lắc đầu:
- Chị bắn sang cho Phấn.
Rồi tiếp:
- Chào chị Minh, cám ơn chị nhiều.

Tôi tiễn Vân ra cửa.
Một tuần trôi qua. Mối quan hệ với cô chủ nhà trở nên thân mật qua những cuộc trò chuyện quanh mâm cơm. Quen mồm, thỉnh thoảng cô xổ ra một vài tiếng tây bồi. Cô không tò mò hỏi về việc “học hành” về hoàn cảnh gia đình của tôi. Tôi cũng tránh hỏi về người chồng Lê dương, chỉ xoay quanh cuộc mưu sinh về lâu về dài của cô. Hôm tôi hỏi:
- Không buôn bán, không nơi nương tựa, rồi đây chị sống bằng gì?
Minh cười chua chát:
- Không buôn nhưng có bán đấy chứ. Bán dần mọi thứ trong nhà, ăn hết sẽ tính sau. Mo-phú[1]! Cứ liều nhắm mắt đưa chân, mặc cho con tạo xoay vần tứ tung…
- Sao chị không về quê với các cụ?
- Ở đây may ra sống chứ về quê thì ba bẩy hăm mốt ngày là chết nhe răng. Bà mẹ mới gửi thư nhắn có tiền có gạo thì mang về cứu đói, bố mẹ ăn hết chỗ cám ngày xưa nuôi lợn còn thừa rồi. Mình về là mang về thêm một miệng ăn, càng chóng đưa cả nhà vào cảnh chết đói cả nút chứ sống sao nổi.
Minh ứa nước mắt, đặt bát cơm chạy vào ngách bếp khóc thút thít.
Tháng sau, lúc đưa số tiền gạo của Trọng ủng hộ, tôi tỏ ý băn khoăn:
- Các thứ góp cho chị chỉ có từng này nhưng hình như chị cho ăn trội hơn…
Minh gạt đi:
- Đừng nghĩ vớ vẩn. Có gì ăn nấy, ăn cho khỏe lấy sức mà học.
Minh lo liệu rất chu đáo chuyện ăn uống, liễn cơm gạo đỏ bao giờ cũng ủ nóng chờ tôi về mới lấy ra cùng ngồi ăn, thức ăn chỉ là muối vừng, cà pháo, rau luộc, lâu lâu mới có đĩa rau muống sào tỏi hoặc giá sào bì lợn nhưng mâm bát luôn sạch sẽ, bữa nào cũng giành chỗ ngồi đầu nồi xới cơm, bát nào cũng lèn thật chặt trao bằng hai tay kèm theo nụ cười kn đáo.
Một hôm tôi đi công tác từ tối hôm trước đến tối hôm sau mới về. Ăn cơm xong định về phòng mình thì Minh giữ lại.
- Sáng nay ngủ dậy thấy có cái này dán ngoài cửa.
Minh đi đến giường thò tay xuống gầm lấy ra tờ giấy. Tờ áp-phích viết: “Ủng hộ Việt Minh“, “Đánh đuổi giặc Nhật“,“Chuẩn bị Tổng khởi nghĩa”, bên rìa có một vạch đỏ chạy suốt chiều dọc, chính giữa vẽ ngôi sao vàng.
Tôi giật mình: ”Đã qui định là không được dán vào nhà dân, họ dễ bị rắc rối, chủ nhà sẽ oán mình. Mấy cậu này vô kỉ luật quá.” Rồi nghĩ tiếp: ”Chắc họ cũng như mình trước kia, coi đây là nhà vợ lính tẩy, là đồ đĩ rạc ôm đít tây! Cứ dán vào đây cho nó chết quách!”
Tôi thăm dò:
- Sao không đốt đi? Giữ lại nguy hiểm lắm.
Minh lắc đầu:
- Của Việt Minh, đốt đi là không tốt với họ. Chốc nữa mang ra cầu ao chặn gạch lên, sáng mai thể nào cũng có nhiều người đọc. Trước kia Hen-rich thích Việt Minh lắm.
Được dịp tìm hiểu kĩ về cô chủ nhà, tôi hỏi:
- Hen-rich là ai? Sao chị biết Hen-rich thích Việt Minh?
Minh đáp:
- Hen-rich là chồng mình, người Đức. Hiền và tốt lắm, nói tiếng ta rất giỏi. Không nghiện rượu, không hút thuốc, không bao giờ nói nặng vợ một câu, hễ  hàng xóm đánh vợ là sang can, hễ họ chửi vợ “Đồ An-na-mít bẩn thỉu” là anh ấy vuốt má Minh, lắc lắc đầu xin lỗi
Cô tiếp:
- Một hôm Hen-rich bảo: “Anh sắp phải xa em. Anh đi làm một việc rất thiêng liêng rất nguy hiểm.” Minh hỏi: ”Anh đi đâu? Làm gì? Bao giờ về?” Anh lắc đầu nói còn chờ lệnh cấp trên, chỉ biết là việc này có lợi cho nước Đức quê anh, cho nước Annam quê chung của hai vợ chồng. Anh ấy còn nói: không dám hi sinh cho tổ quốc là hèn. Nhưng...
Minh gục mặt khóc nấc lên.
Tôi lặng im, nhẹ nhẹ xoa tay trên lưng Minh. Lát sau thổn thức:
- Hen-rich chưa kịp đi thì đêm đảo chính, Nhật bắn chết anh ấy cùng mấy người bạn. Chỉ một người chạy thoát, nửa đêm đến đập cửa báo tin cho Minh rồi biến mất.
Lát sau cô tiếp:
- Trước đó vài hôm Hen-rich đưa một gói nhỏ, dặn “Em tìm Việt Minh đưa món quà anh tặng họ”. Nhưng mình biết Việt Minh ở đâu mà đưa. Hoàn cảnh mình như thế, ai dám tin? Phấn đông bạn bè, dễ tìm họ hơn, Phấn giúp Minh việc này nhé!
Tôi thận trọng:
- Có biết là gói gì đâu tôi dám đưa cho Việt Minh?

Minh ra khóa cửa rồi tới ngồi xổm trước tủ gương, thì thầm:
- Tự tay Hen-rich đóng  thêm cái đáy tủ này đấy.
lôi ra một gói bọc kn, nhỉnh hơn bàn tay, chằng dây gai hai lần chữ thập, trên mảnh giấy dán đè lên viết bằng tiếng Pháp: “Quà tặng của Henrich Hess. Chúc thành công.
Tôi cắt dây. Trong hộp các-tông có khẩu Walther 7,65 xanh ngời ánh thép, tên súng khắc chìm sơn màu vàng tươi, báng nhựa nâu đỏ, hai băng đạn lắp đầy mỗi băng bẩy viên, các chỗ trống trong hộp lèn những viên đạn vàng chóe.
Minh tròn xoe mắt nhìn  tôi.
Tim tôi đập thình thịch. Lần đầu tiên được cầm trên tay một khẩu súng đẹp chẳng khác một món nữ trang. Ngắm nghía, mân mê một lúc tôi tháo khẩu súng kiểm tra lò so, kim hỏa, soi nòng qua ánh đèn xem các đường rãnh. Tất cả đều rất tốt, còn mới toanh.
Tôi nói nhỏ:
- Mình sẽ tìm Việt Minh đưa cho họ. Họ sẽ dùng nó bắn chết những đứa đã giết Hen-rich, những đứa bắt dân mình nhổ lúa trồng đay làm hàng triệu người chết đói…
Minh lộ vẻ lo lắng.
-Cẩn thận nhé Phấn ơi. Dễ mất đầu lắm đấy.
Cô ngả người tì nhẹ lên vai tôi.

 Đến hẹn, tôi lại đi nhận tiền và gạo. Lần này Trọng lúng túng xin lỗi: “Nhà tôi có việc đột xuất phải về quê, vội quá nên quên không để lại tem gạo. Xin gửi anh tiền, thứ Ba tuần sau mời anh đến”. Trọng tự tay nhét vào túi  tôi sáu tờ 1 đồng và hai tờ 5 hào.
Thế là một tuần nữa mới có gạo. Tôi chờ có cả tiền và gạo đưa một lúc như lần trước mới dễ nói của bố mẹ gửi cho. Lúc ngồi ăn trưa tôi phân trần:
- Không hiểu sao tháng này các cụ tiếp tế chậm thế. Mình phải lên Sơn Tây xem sao…
Minh xua tay:
- Không cần, không cần... Chẳng lẽ Minh không nuôi nổi Phấn dăm bẩy ngày? Mình còn phải  giúp bố mẹ nữa cơ mà. Phận làm con, không đời nào khoanh tay ngồi nhìn bố mẹ chết đói. Minh đã có cách giúp bố mẹ vượt qua đận này.... Phấn cứ ăn no ngủ kĩ, đừng ngại.
Tôi nghĩ khác. Ở đây ăn bám dù chỉ dăm bẩy ngày cũng gây khó khăn lớn cho Minh, tôi không đành lòng. Tối đến, tôi khóa cửa phòng, xách xắc quần áo sang nhà anh chị Kim. Sau khi kiểm tra, biết chắc không có hai cành tre buộc chéo tôi vào nhà. Đã quen lệ đi đi về về bất chợt của tôi, anh chị Kim sốt sắng thu xếp chỗ ngủ cho tôi.

Thứ Ba, theo hẹn tôi lại tới nhà Trọng.
Tám giờ tối. Từ phố Huế rẽ vào ngõ, tôi đi theo dẫy nhà đối diện căng mắt nhìn. Sau cánh cửa kính căng tấm rèm màu hồng, những sợi kim tuyến phản chiếu ánh đèn đường càng nổi rõ màu hồng tươi. Tôi chột dạ: tín hiệu báo động.
Nhìn xung quanh không thấy ai lảng vảng quanh đây, tôi ra khỏi ngõ theo phố Jacquin (Ngô Thời Nhậm) trở về. Sáng mai sẽ khất nợ Minh lần nữa rồi tính tiếp.
Nhưng họa vô đơn chí.
Về đến nhà, thấy ánh đèn điện hắt qua khe cánh cửa lá sách chập chờn lúc sáng lúc mờ tôi lấy làm lạ, ghé mắt nhìn qua lỗ khoá. Trên mặt bàn vứt bừa bãi một chiếc quần tây xanh sẫm, chiếc áo sơ-mi trắng và chiếc may-ô. Một gã đàn ông cởi trần, trên người chỉ có chiếc quần đùi ngắn cũn cỡn đang loay hoay khoanh tờ báo che bớt ánh sáng ngọn đèn điện. Qua tấm màn buông trên giường loáng thoáng hình người nằm duỗi thẳng hai chân.
Hiểu ngay thế là thế nào tôi rón rén đi vào phòng mình, thu dọn quần áo. Nay mai chắc chắn sẽ có nhiều khách làng chơi lui tới xóm này giải buồn, lại đây rất nguy hiểm.
Nhẩm tính tháng này còn thiếu của Minh năm ngày tiền ăn tiền ở khoảng hơn một đồng, tôi suy tính giây lát rồi tặc lưỡi, rút túi đếm đủ sáu đồng năm hào đặt lên bàn. Thương Minh lắm Minh ơi! Nhưng Phấn không có cách gì cứu Minh được!
Tôi khóa cửa, đi về nhà anh chị Kim. Dọc đường và suốt đêm ấy tôi nghĩ rất nhiều, càng nghĩ càng đau lòng trước tình cảnh của Minh và giải pháp cùng quẫn của cô. Than ôi! chuyện cô Kiều phải bán mình chuộc cha không phải là chuyện tưởng tượng của nhà thơ mà là chuyện thực trên đời này! Trong tâm tưởng chợt vọng lên tiếng thở dài thê thảm “Đau đớn thay phận đàn bà!”
                                                                                                                                             SĐM



[1] M’en fous : cóc cần .