Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

ĐƠN VỊ TÔI "RÈN CÁN CHỈNH QUÂN"


  Cuối năm 1953, cơ quan bộ Tư lệnh Liên khu Việt bắc cùng toàn quân bước vào cuộc Rèn cán Chỉnh quân. Là cán bộ đã dự lớp tập huấn do Lý chính ủy (cố vấn Tàu) thuyết giảng, đã học trường đảng Nguyễn Ái Quốc nên tôi được tham gia ban lãnh đạo chỉnh quân của cơ quan, trực tiếp làm liên tổ trưởng ba  tổ gồm cán bộ, nhân viên ban Tuyên huấn, ban Địch vận và ban Hành chính phòng Chính trị.
Nội dung học tập không có lí luận gì cao xa. Trước tiên là quán triệt chỉ thị của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về cuộc vận động “Rèn cán Chỉnh quân”, sau đó nghe giảng, thảo luận tổ, nghe giải đáp thắc mắc xung quanh các tài liệu  “Tình hình và nhiệm vụ mới. Cải cách Ruộng đất. Đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân”.
Sau hai tuần  học lí luận đến bước phản tỉnh, cá nhân làm kiểm điểm. Thiếu tướng Chu Văn Tấn chính ủy Liên khu trực tiếp hướng dẫn, động viên làm kiểm thảo.Thiếu tướng nói mộc mạc, đi thẳng vào vấn đề “Phải căn cứ vào lí luận vừa học, liên hệ bản thân, phản tỉnh sâu sắc, thành khẩn kiểm điểm, mạnh mẽ phê phán sai lầm để bản thân tích cực sửa chữa và đồng đội giúp sức, không giấu giếm mà phải khai hết mọi điều về nhân thân và gia đình để tập thể biết và xây dựng ta thành người tốt…”
Trong một ngày viết kiểm thảo, tôi suy nghĩ nát óc, nhiều lúc hoang mang không biết mình đúng hay sai. Có những cái sai rành rành, như  trong những năm hoạt động ở Hà Nội đã có lần vi phạm nguyên tắc bí mật, tự dưng  dẫn Huy con vào nhà Phúc sẹo để đến nỗi bị hiến binh Nhật bắt cả hai anh em, những phút yếu lòng nhớ tiếc cuộc sống bình yên với người thân trong gia đình, ngán ngại cuộc chiến đấu đầy gian nguy…Nhưng có nhiều điều tôi rất khó phân định đúng sai. Đế quốc Pháp thống trị dân mình gần một trăm năm, vơ vét biết bao nhiêu của cải, giết hại biết bao nhiêu người yêu nước của ta vậy mà tôi lại đề cao, yêu mến văn học văn hóa Pháp. Thế có là mất lập trường không ? Trong một trận phục kích ở địch hậu Sơn La tôi quyết định không bắn chết tên lính dõng mà chỉ bắn nó bị thương , như vậy có phải do lòng căm thù giai cấp chưa đủ mạnh, chưa cao ? Những tác phẩm văn học, những bài thơ bản nhạc tôi ưa thích đều ít nói đến căm thù địch, đến đấu tranh giai cấp…mà phần lớn đều ca ngợi những tình cảm, những xúc động cá nhân trước thiên nhiên, trước tình yêu. Như thế có phải là cá nhân chủ nghĩa, là  lãng mạn tiểu tư sản, ủy mị, yếu đuối,  thiếu tinh thần chiến đấu không ?
Tuy còn phân vân nhiều điều nhưng cuối cùng tôi cũng viết được bản kiểm thảo dài hơn hai trang phơi đúp kể đầy đủ những tội lỗi nghiêm trọng đã phạm. Nào là tư tưởng chưa dứt khoát bạn thù ta nên còn lưu luyến nhiều thứ của thực dân đế quốc, thích gần gũi giao du với người có học, coi thường nông dân, ngán ngại lao động chân tay, thiếu quan điểm quần chúng, có tư tưởng chuyên môn đơn thuần nên trong thời gian chiến đấu trong địch hậu Sơn La đã không quan tâm vận động nhân dân sản xuất chống đói, không chăm lo nâng cao trình độ kĩ chiến thuật cho đơn vị. Nào là bi quan, dao động, thiếu tinh thần chịu đựng gian khổ khắc phục khó khăn, khi gặp nguy hiểm dễ hoảng sợ mất bình tĩnh, khi thuận lợi thường lạc quan tếu, chủ quan khinh địch, mất cảnh giác gây tổn thất nặng nề cho cách mạng... Tôi phân tích nguyên nhân : gia đình và bản thân thuộc từng lớp tiểu tư sản thành thị nên dễ gần các giai cấp bóc lột hơn là các giai cấp nghèo khổ. Bố làm đầy tớ cho đế quốc Pháp, bản thân học trường của Pháp, nên đã tiêm nhiễm rất nặng tư tưởng tư sản đế quốc, đã thế lại không tích cực rèn luyện bản thân, còn che giấu dung dưỡng sai lầm khuyết điểm của mình.. Họ hàng thân thích có nhiều người không chịu được gian khổ đã bỏ tổ quốc ra nước ngoài học nghề kĩ sư, bác sĩ, giáo sư hòng vinh thân phì gia bằng con đường làm nô lệ cho đế quốc thực dân. Tôi đề ra phương hướng phấn đấu :  tích cực học tập chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức rèn luyện đạo đức, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ dù phải đổ máu hi sinh cũng không lùi bước.
Đêm đã khuya tôi vẫn ngồi đọc đi đọc lại , phóng đại một số khuyết điểm, cường điệu một số tác hại, tô vẽ thêm râu thêm ria chỗ này một tí chỗ kia một tẹo …Khi thấy bản kiểm thảo nghe đã khá “kêu” mới yên chí nằm xuống ngủ.
Sáng hôm sau bản kiểm điểm của tôi được thông qua trước. Sáu tổ viên lần lượt bổ sung, phê phán các khuyết điểm sai lầm, vạch rõ tác hại, phân tích nguyên nhân và góp ý về biện pháp sửa chữa. Tôi ngoan ngoãn ghi chép không sót một lời, không cãi một câu, cuối buổi tôi chân thành cám ơn các tổ viên và hứa tích cực phấn đấu tẩy rửa kì hết mọi biểu hiện tư tưởng đế quốc, phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, cá nhân chủ nghĩa.
Sau tôi đến các tổ viên khác. Người nào cũng tội lỗi rề rề, trong đầu chất đầy tư tưởng sai trái, thù địch. Người thì thông đồng với địa chủ bóc lột nông dân, người thì có tư tưởng bảo mạng đang định đào ngũ để khỏi phải đi chiến đấu, người sắp “dinh tê” theo địch. Các tổ viên ra sức khêu gợi , truy bức, moi ra những tội ghê tởm  nhất,  cất cao những lời phê phán sâu sắc nhất để đồng đội thấm thía, suy diễn ra những tác hại khủng khiếp nhất để giúp đồng đội tỉnh ngộ, đề ra những biện pháp sửa chữa khắc nghiệt nhất để đồng đội chóng tiến bộ.
Rất nhiều cậu khai đã bóc lột nông dân thậm tệ, đã gây tội ác như đánh nông dân thành tật,  hiếp dâm vợ lẽ địa chủ hoặc con gái nông dân…
Tổ bên có cậu Sơn, một tay ghita hawai rất có tài năm nay 20 tuổi thú nhận cách đây 7 năm đã làm nhân viên 2e Bureau, cơ quan tình báo của Pháp.
Cậu Hòa ở một tổ khác nhận là địa chủ gian ác, đã vài lần … hủ hóa với mẹ đẻ.
Không khí thi đua kiểm thảo, thi đua thành khẩn, thi đua thể hiện lập trường giai cấp hừng hực bốc cao ở tất cả các tổ.  Đêm nào cũng có tiếng khóc tiếng đấm ngực thùm thụp của những cậu bị  hối hận dày vò về những tội ác tày trời mình đã gây nên. Có cậu định treo cổ tự tử, một cô đang nửa đêm vùng dậy gào thét chạy ra suối định nhẩy ùm xuống cho xong đời. Tôi phải làm lịch luân phiên nhau canh gác suốt đêm bên bờ suối. Tuy nước suối ngập chưa đến đầu gối, nhưng biết đâu đấy, trong cơn cùng quẫn người ta có thể nằm sấp úp mặt dưới nước là vẫn chết được như thường!
        Cuối cùng, tổ tôi thông qua bản kiểm điểm của nữ tổ viên Trâm. Cô nhân viên phòng Hành chính này cũng phạm một số khuyết điểm phổ biến như ngại khó ngại khổ, lười lao động chân tay, không hòa mình vào quần chúng, thiếu tinh thần hữu ái giai cấp, nể nang không tích cực đấu tranh chống sai lầm khuyết điểm của đồng đội… Các tổ viên phân tích phê phán có phần nhẹ nhàng hơn so với khi thông qua các người khác vì xưa nay Trâm là cô gái đoan trang, ngoan ngoãn, mọi người đều mến. 
Nhưng đoạn kết lại khá bất ngờ. Trâm vừa định trình bày phần nguyên nhân khuyết điểm và biện pháp sửa chữa thì tổ viên Vũ Dương giơ tay xin phát biểu.
-            Tôi thấy đồng chí Trâm kiểm điểm không thành khẩn.
Trâm ngửng lên nhìn Dương, nhìn mọi người có ý ngạc nhiên. Vũ Dương cất cao giọng, chỉ tay giữa mặt Trâm quát:

-            Gái chưa chồng mà vú to thế kia, nhất định đã hủ hóa! Sao không khai ra? Nào, nhận đi, hủ hóa với ai, mấy lần, ở đâu, như thế nào?
Trâm bưng hai tay che mặt, khép hai cánh tay che ngực, thút thít rồi khóc nấc lên.
Tôi nghĩ thầm: “Thằng cha này tinh đời thật. Mình có mắt cũng như mù! Không có nó phát hiện thì mình làm sao biết được chuyện ma ăn cỗ.”
Nhưng sau vài lần bị Vũ Dương truy vấn kịch liệt Trâm vẫn nhất định chỉ nhận có cho người yêu ôm hôn ba bốn lần chứ chưa…gì. Vũ Dương lại hùng hổ chất vấn:

-            Người yêu của đồng chí là ai, tên gì, ở đâu ? Nó chỉnh quân ở tổ nào? Tôi sẽ báo cho tổ của nó biết để bắt nó phải khai bằng hết.
Thấy quá đáng, tôi gạt đi :
 -      Có người yêu không phải là khuyết điểm. Đảng không cấm trai chưa vợ gái chưa chồng yêu nhau. Đây là chuyện riêng tư của cá nhân, tổ không yêu cầu phải báo cáo. Khi nào định thành vợ thành chồng mới phải báo cáo và xin phép. Đề nghị đồng chí Trâm trình bày tiếp phần nguyên nhân khuyết điểm và biện pháp sửa chữa.

Vũ Dương có vẻ khó chịu  nhưng không nói gì thêm.
Cuộc kiểm thảo kết thúc. Chính ủy Chu Văn Tấn đánh giá phong trào  Chỉnh quân đạt kết quả tốt. “Tất cả chúng ta đều sinh ra dưới thời đế quốc phong kiến thống trị, phải thở thứ không khí, phải ăn thứ cơm uống thứ nước bị chúng đầu độc nên chúng ta đều có nhiều khuyết điểm đều mắc nhiều sai lầm, đều phạm nhiều tội lỗi trước Đảng. Những người có bố mẹ họ hàng làm việc cho chúng, buôn bán với chúng, học hành trong trường của chúng thì càng nhiễm nặng nọc độc của chúng. Bây giờ chế độ ấy đã bị đánh đổ nhưng tàn dư tư tưởng đế quốc phong kiến vẫn còn  bám rễ trong đầu óc chúng ta. Phải nhổ bằng hết, quét bằng sạch, kiên quyết chống tư tưởng dao động sợ chết, thiếu tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nông dân, thèm khát lối sống ngồi mát ăn bát vàng của các giai cấp bóc lột, thiếu tinh thần khắc phục khó khăn gian khổ…Cuộc Rèn cán Chỉnh quân lần này đã bước đầu thanh toán được một số tư tưởng sai lầm của các đồng chí nhưng không được chủ quan thỏa mãn, phải tiếp tục cải tạo lâu dài, phải lột xác hoàn toàn, triệt để…”
Nghe chính ủy đánh giá tình hình tư tưởng cán bộ đảng viên như vậy, tự nhiên tôi nhớ lại buổi tổng kết  khóa 4 trường Nguyễn Ái Quốc. Hồi ấy chúng tôi được coi là “căn bản tốt, có tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước cao kết hợp với tình yêu chủ nghĩa xã hội, tuy có những hạn chế về trình độ chính trị và do tàn tích của chế độ cũ sót lại nên đôi lúc phạm khuyết điểm nhưng đảng viên ta có ý thức tự rèn luyện, luôn phấn đấu để hoàn thiện bản thân phục vụ cách mạng tốt hơn. Tư tưởng chủ đạo trong cán bộ đảng viên ta là tư tưởng cách mạng...” Cuộc Rèn cán Chỉnh quân này làm tôi đánh giá khác hẳn về con người tôi và các đồng chí xung quanh: tất cả chúng tôi đều bé nhỏ hèn mọn như con sâu cái kiến, đều kém cỏi  xấu xa về mọi phương diện…   
       
       Tuy vậy tôi vẫn ngờ ngợ.. . Nếu thế, do đâu những con người này ngay từ đầu cuộc Kháng chiến đã vây chặt được bọn Pháp 60 ngày đêm trong thủ đô Hà Nội, sau đó đã bẻ gẫy cuộc tấn công thu đông 1947 của chúng rồi liên tiếp đánh bại chúng trong hàng loạt chiến dịch? Cái gì đã thúc đẩy hàng vạn con người này dám hi sinh tính mạng vì Độc lập Tự do của Tổ quốc?
        Một tuần sau, không khí chỉnh quân xẹp xuống, tôi lựa lúc vắng đến gặp Hòa người khai đã vài lần “hủ hóa” với mẹ đẻ.

-          Hòa ơi, thú thật là mình không tin cậu làm chuyện loạn luân đồi bại ấy. Đúng không?
Hòa chép miệng:

 -       Trong phong trào thi đua thành khẩn đang sôi lên sùng sục, mình như lên cơn điên, muốn nặn ra một tội gì thật ghê gớm, thật kinh tởm, hơn hẳn mọi người để được biểu dương là thằng thành khẩn nhất. Mình còn nghĩ rằng phải nhận những tội thật nặng mới là thành khẩn với Đảng và dễ được Đảng kết nạp.

Thì ra thế!
                                                                                                                                         SĐM


Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

TÔI ĐI HỌC CHÍNH TRỊ...để “NÂNG CAO NHẬN THỨC, CẢI TẠO TƯ TƯỞNG”


Trong những năm 1950  thủ trưởng của tôi là Lê Đình Thiệp Chủ nhiệm phòng Chính trị Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc. Ông  là cán bộ cũ từ thời kì bí mật. Bản thân là thành phần cốt cán (bần nông) nhưng khác với hầu hết cán bộ thành phần cơ bản ông không có định kiến nặng nề với bọn tiểu tư sản học sinh chúng tôi. Hồi đó chỉ hai ban Bảo vệ và Cán bộ có phần lớn cán bộ là thành phần cơ bản, các ban Tuyên huấn, Địch vận số đông là tiểu tư sản. Riêng ban Tuyên huấn của tôi thì toàn là tiểu tư sản hạng nặng: đội Văn công có nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, Hồ Bắc, Nguyễn Văn An, các diễn viên Huy Công, Thúy Nga, Nguyễn Thị Thậm  v.v. bộ phận Văn nghệ có nhà thơ Hoàng Cầm, nhà văn Ngô Linh Ngọc, Bàng Sĩ Nguyên, họa sĩ Giang Tô, Tô Linh (con Lê Giản giám đốc đầu tiên của Nha Công An)…Vì thế ban Tuyên huấn bị coi là cái ổ tư tưởng tiểu tư sản.
Kết hợp nhận xét của riêng ông với ý kiến của ban Cán bộ đánh giá tôi, ông phê bình tôi tuy có nhiều điểm tốt nhưng vì thành phần gốc rễ là tiểu tư sản nên tôi còn mang nặng nhiều căn bệnh, phải tích cực sửa chữa mới tiến bộ được. Đó là những bệnh cố hữu trong từng lớp tiểu tư sản: tự cao tự đại, không kiên định, dễ dao động trước khó khăn nguy hiểm, ủy mị, lãng mạn, cá nhân chủ nghĩa…Ông nhắc lại những điều được viết  nhiều trong các văn kiện của Đảng: điều mấu chốt để rèn luyện, tu dưỡng là thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh.
Để tạo điều kiện cho tôi tiến bộ ông cử tôi đi học trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc khóa 4. Tôi được ông chọn trong số hơn một trăm cán bộ trung cao cấp của cơ quan bộ Tư lệnh.
Trường được xây dựng tại xã Tân Tiến huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang, trên quả đồi thấp sát chân núi Lũng Đẩy. Bốn bề rừng rậm, nhiều con suối chia cắt trường thành những khu riêng biệt. Giảng đường do kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp thiết kế rất bề thế đủ chỗ ngồi cho khoảng 400 người, các hàng cột gỗ kê trên đá tảng, mặt bàn học bằng ván gỗ phẳng phiu. sân khấu cao hơn mặt sàn 2 mét. Cách giảng đường 50 mét có mười dãy nhà cho học viên, có bệnh xá mười giường, nhà ban giám đốc và giảng viên, nhân viên phục vụ. Nấp kín ở một góc là nhà hai cố vấn Trung quốc. Họ nhanh chân lắm, mới đó đã có mặt rồi!
Tháng Tư năm 1952 khóa học khai mạc. Phó giám đốc Nguyễn Chương báo cáo tình hình : có 300 học viên trung cao cấp của Đảng, nhiều đồng chí lãnh đạo quân đội như Quang Trung, Bằng Giang, Hoàng Sâm, Đồng Sĩ Nguyên. Chương trình gồm: Cách mạng dận tộc dân chủ, Đường lối Trường kì kháng chiến. Tình hình và nhiệm vụ. Giảng viên là các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương.
Phó giám đốc báo cáo xong, giới thiệu:
            -Xin báo với các đồng chí tin mừng: Bác Hồ tới dự lễ khai mạc và huấn thị cho chúng ta.
            Mọi người đứng bật dậy vỗ tay rào rào. Bác đi thẳng lên sân khấu tới trước micro. Tiếng vỗ tay vẫn chưa dứt. Bác giơ hai cánh tay hạ mạnh, ra hiệu mọi người ngồi xuống. Rồi Bác nói đại ý “những việc cần kíp của Đáng ta hiện nay là học tập chủ nghĩa, nâng cao lí luận, dùi mài tư tưởng, chỉnh đốn tổ chức”. Nghe Bác nói “dùi mài tư tưởng” tôi nghĩ: nói “cải tạo” nghe  quyết liệt, cải tạo là phải thay đổi hẳn tư tưởng cũ bằng tư tưởng mới; dùi mài  là chỉ bỏ đi những phần khô rám, trau chuốt cho tư tưởng trong sáng, lộng lẫy hơn.
             Bác đi một vòng thăm các khu nhà ở, phòng giáo vụ, nhà bếp. Trước khi ra về, Bác khen phong cảnh nơi này rất đẹp và nêu ý kiến nên đặt tên cho quả đồi giảng đường là đồi Stalin.
Sau khi tiễn Bác ra về, Lê Văn Lương trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng kiêm giám đốc trường trở vào giảng đường kể lại chuyện Bác tới thăm khóa 2 năm 1949, ghi Sổ Vàng  lời dạy :” Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và Nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải Cần Kiệm Liêm Chính, Chí công vô tư”.

Trong tổ tôi có Phú Hương lớn tuổi nhất, khoảng bốn mươi, là học viên lắm ý kiến nhất, phần lớn là những ý kiến tôi cho là ngang ngược, trái chiều.  Phú Hương thường đưa ra nhiều thắc mắc khiến tổ lúc thảo luận sôi nổi, lúc ngồi ngẩn tò te không biết nên phát biểu thế nào. Ví dụ: “Có nên nói chính quyền của ta thực chất là chuyên chính vô sản không? Tại sao lại chỉ một mình giai cấp vô sản nắm chính quyền trong khi ở nước ta nông dân chiếm đa số? Lại có khi nói chính quyền của ta là chính quyền công nông, như thế cũng không đúng vì không khẳng định vai trò cực kì quan trọng của trí thức trong hoàn cảnh đất nước lạc hậu, trên 90 % dân không biết chữ. Sau này xây dựng chủ nghĩa Xã hội mà không phát huy trí tuệ tâm huyết của trí thức thì làm sao giải quyết nổi các vấn đề phức tạp khó khăn của đất nước? Mặt khác, nói thế hóa ra việc ta vận động cho đảng Xã Hội có 24 ghế, đảng Dân Chủ có 46 ghế trong Quốc hội khóa 1 và 4 ghế bộ trưởng trong chính phủ lâm thời chỉ là mánh khóe giả vờ tôn trọng vai trò trí thức, coi họ chỉ là bù nhìn giữ dưa chứ không được thực sự tham gia chấp chính? v.v. Phú Hương còn đưa ra nhiều ý kiến tôi cho là vượt quá khuôn phép của Đảng. Theo Phú Hương thì  “nguyên tắc dân chủ tập trung là cần nhưng đa số có khi sai thiểu số có khi đúng, cấp trên có khi sai trong khi cấp dưới lại đúng. Trong những trường hợp ấy phải có qui định giải quyết như thế nào chứ không thể để cái sai của đa số, của cấp trên lấn át đè bẹp cái đúng của cấp dưới của thiểu số. Hồi ở Liên Xô, vì giữ quan điểm “Cách mạng Đông Dương là cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội “ Bác Hồ bị ban Chấp hành Đệ tam Quốc tế Kominterm coi là theo “chủ nghĩa dân tộc” nên phải ngồi chơi xơi nước một thời gian dài. Thế có phải là cấp trên và số đông sai còn cấp dưới, thiểu số đúng không nào? Hiến pháp 1946 qui định nhân dân có quyền phúc quyết các quyết định của quốc hội, vậy thì đảng viên có quyền phúc quyết các nghị quyết của Đại hội Đảng không?”
Tôi hơi sợ sợ ông anh bạo mồm bạo miệng này, và thấy mình chưa đủ trình độ bàn luận đúng sai với anh ấy. Nhưng thấy anh có một điểm rất cần học theo : không cúi đầu chấp nhận ngay một luận thuyết, một đường lối, một chủ trương chính sách dù được coi là chính thống.Phải lật đi lật lại suy nghĩ thật thấu đáo tìm hiểu thật cặn kẽ.
Học xong phần lí luận chuyển sang làm thu hoạch.
            Hai ngày thông qua thu hoạch kết thúc nhẹ nhàng, bản thu hoạch của từng tổ viên được góp ý chân thành không đao to búa lớn, không truy ép, từng người đều thấy mình hiểu thêm nhiều điều mới mẻ về lí luận, tìm ra những thiếu sót lệch lạc để sửa chữa.

Hôm nhà trường tổng kết khóa học, phó giám đốc Nguyễn Chương đánh giá cán bộ đảng viên ta rất tốt, có tinh thần dân tộc cao kết hợp chặt chẽ với lòng yêu chủ nghĩa xã hội, tuy có những hạn chế về trình độ chính trị nên đôi lúc phạm khuyết điểm nhưng đảng viên ta có ý thức tự rèn luyện tốt, luôn phấn đấu để hoàn thiện bản thân phục vụ cách mạng tốt hơn.
Tôi đinh ninh thể nào Phú Hương cũng bị cạo một mẻ ra trò vì những ý kiến táo tợn của anh. Nhưng phó giám đốc Nguyễn Chương lại tỏ ý ủng hộ: “Nhiều đồng chí có những đóng góp quan trọng giúp Đảng rà soát công tác xây dựng đảng và công tác lãnh đạo của Đảng. Đóng góp như thế là rất tốt, rất quí. Đảng ta chỉ có thể phát triển lớn mạnh khi trong Đảng có không khí thực sự dân chủ, mọi sai lầm khiếm khuyết của tập thể ban lãnh đạo cũng như của cá nhân các đồng chí lãnh đạo cao nhất đều được các đảng viên phát hiện, góp ý cách sửa chữa…Trong sinh hoạt đảng, các đồng chí có quyền phê bình cấp trên một cách thẳng thắn, không e dè nể nang. Và chính các đồng chí cần phải gương mẫu tự phê bình trước cấp dưới. Như thế trong Đảng mới có không khí dân chủ thực sự, yếu tố cơ bản nhất giúp Đảng phát triển, lớn mạnh”.

Tự đánh giá kết quả khóa học chính trị vừa qua, tôi tâm đắc nhất ba điều:
-lời dạy của Bác Hồ về mục đích học tập,  
-phương pháp tư tưởng của Phú Hương,
-câu kết luận cuối cùng của Nguyễn Chương.
                                                                                                                        SĐM