Tết Ất Dậu năm 1945
tôi về làng Hội Thống huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh ăn Tết với bà ngoại. Đêm giao thừa tôi đang thủ thỉ thăm dò lòng yêu nước của anh Niêm con
cậu chắt Trí, định vài ngày nữa sẽ đưa anh vào hội Nông dân Cứu
quốc thì có tiếng gọi qua hàng rào sau nhà:
- Bớ anh Niêm! Mở cổng có người kêu nè.
Anh Niêm mừng rỡ, huých tôi:
- Hàng xóm đi biển kiếm được
cá, gọi ta sang lấy. Mai anh em mình có cá tươi ăn rồi.
Ở xóm này vẫn có lệ thay
phiên nhau nấu nồi nước chè xanh gọi hàng xóm sang cùng uống, nhà làm
nghề biển được cá thì gọi hàng xóm sang chia phần.
Thằng con anh Niêm chạy ra
mở cổng. Hai tên lính lệ xách hai chiếc đèn chai lách qua người
nó đi thẳng vào nhà, theo sau là anh lí Đồng con cậu đĩ Nhường. Hai tên lính soi đèn vào
chõng bà ngoại đang nằm, rồi tới
trước cửa buồng lớn tiếng hỏi:
- Nguyễn Phan mô?
Tôi tụt xuống giường, đáp:
- Tôi đây.
- Bận quần áo, lên huyện. Quan huyện đòi.
Tôi nghĩ ngay đến số tài
liệu Việt Minh trong túi quần móc trên vách liếp cạnh hòm thóc. Tôi
chậm chậm đi ra chỗ bà ngoại đang nằm rên hừ hừ, trèo lên chõng. Chõng hẹp, bề ngang chỉ khoảng
sáu mươi phân, trên chõng lúc này có hai bà cháu nên hai tên lính lệ
đành đứng dưới đất giơ cao chiếc đèn chai sau lưng tôi. Soi cao đèn như thế kia nhất định chúng bị lóa mắt, bóng tôi lại
che kín chiếc quần móc trên vách nên chúng không thể trông thấy tôi đang nhanh
tay lấy hết những tài liệu quốc cấm trong túi quần giắt vào vách liếp. Hai thằng lính vẫn đứng im dưới
đất soi đèn. Tôi thở phào nhẹ nhõm, mặc blu-dông, mặc quần tây bước xuống. Một tên rút còng trong túi bập
vào cổ tay tôi. Bà ngoại òa khóc:
- Cháu ơi! tội tình chi mà cực rứa cháu ơi!
Tên lính nhăn nhở:
-Không can chi mô. Quan huyện hỏi đôi điều rồi cho về
ngay.
Tôi an ủi:
- Bà và các cậu các anh ả đừng lo. Ngoại cố giữ sức khỏe chờ con về.
Hai tên lính cầm đèn vào phòng hất tung chiếu trên
giường. Anh Niêm đứng tựa lưng vào vách liếp, đưa mắt dáo dác nhìn hai tên
lính, trên mặt lộ vẻ vừa căm tức vừa thoáng sợ sệt. Khi trở ra, một tên trèo lên chõng lấy chiếc ba lô trên hòm
thóc xuống lục tung tóe, vứt hết quần áo ra ngoài rồi tới bàn thờ nghiêng ngó,
sau cùng nó khám túi áo túi quần tôi.
Không thấy gì.
Hai đứa giải tôi ra ngõ. Bà con
hàng xóm nấp sau
hàng rào chè tươi, dưới gốc vối, bụi tre lặng lẽ nhìn theo.
x x x
Trời tối đen, mưa phùn làm
mái tóc bết chặt rỏ nước xuống gáy xuống ngực làm tôi rét run. Tôi
rất băn khoăn không biết do đâu xẩy ra cơ sự này. May mà chúng không tóm được tài liệu. Mình
sẽ chối phăng, không nghe, không thấy, không biết… Mải suy tính, tôi vấp chân vào mô đất loạng choạng vài bước rồi húc đầu vào lưng thằng lính đi trước. Nó
hốt hoảng rú lên:
- Chui cha! Cái chi rứa bay? Trời, choa hết hồn!
Tôi mím
chặt môi để khỏi bật
cười, nghĩ bụng: “Giá
mình kịp xây dựng cơ sở trong làng thì chỉ cần vài ba anh em tự vệ cứu quốc là đủ gô cổ mấy thằng nhát như cáy này, giải thoát cho mình. Tiếc quá! Mình đã bỏ lỡ thời
cơ. Việc có thể làm hôm nay thì chớ để đến ngày mai!"…
Trụ sở huyện hiện ra lờ mờ xa bên tay phải, tôi đi chậm lại liếc nhìn vào thấy vẫn tối om.
Tên lính đi sau đẩy vào lưng tôi, quát:
-Đi! Còn ngái mới tới.
Thì ra không phải là huyện
đòi như chúng nói. Đi qua ngã ba cây Da Lách tới phà Bến Thủy, tên lính hú lên mấy tiếng, một chiếc thuyền nhỏ khua
chèo oàm oạp cặp vào bờ. Sang tới bờ bên kia, màn đêm đang đen kịt
bỗng sáng lóa mắt, tiếng máy ô tô rộ lên. Một bóng đen to cao nhẩy xuống đi theo vệt đèn
pha tới rì rầm vài câu với hai tên
lính lệ rồi tới trước mặt tôi. Nước da nâu sạm, nói tiếng ta rất sõi nó ôn
tồn:
- Chào anh. Anh là Nguyễn Phan phải không? Tôi chờ
anh đã lâu. Mời anh lên xe.
Hắn mở cửa đẩy tôi lên ghế sau. Vừa đặt một
chân lên bậc bất chợt tôi giật mình lùi lại : một con chó béc-giê rất to ngồi thành một đống lù lù đen chùi chũi trên ghế cất tiếng gầm gừ dữ
tợn. Tên tây lai da đen “suỵt“ một tiếng, con chó im bặt. Xe gài số
lao đi. Suốt dọc đường, con béc-giê luôn ghé mõm thở hồng hộc vào tai tôi. Mỗi khi tôi cựa quậy nó lại «gừ»
một tiếng…
Tới sở Liêm Phóng thành
phố Vinh, tôi bị nhốt vào phòng giam. Rạng sáng, hai tên mật thám mặc thường phục đưa tôi ra ga tàu hỏa, hai tay vẫn
bị xích, bụng đói cồn cào, miệng khát khô. Hai đứa xốc nách nhấc bổng tôi lên đặt ngồi xổm giữa chúng trên toa đen. Xung quanh chật ních người
với thúng mủng quang gánh lủng củng những nắm khoai lang khô, lác đác
vài đấu cám, vài đấu tấm vơi vơi.
Tàu đỗ ga Thanh Hóa.
Chúng đưa tôi lên xe kéo về sở Liêm
Phóng. Liếc nhìn căn phòng rộng chừng bốn chục thước vuông chật ních
những gương mặt trẻ măng, hầu hết là bạn học trường Bưởi, tôi chột dạ: sao mà bị bắt
nhiều thế! Trong số ấy chỉ thấy Huy con trong tiểu tổ tôi, không thấy Đu. Tôi càng yên tâm hơn khi không thấy Lã Triều Khu, nhân vật chủ yếu biết
rõ tôi.
Ở một góc phòng có mấy người không phải học trò trường Bưởi. Một anh
trắng trẻo, nhỏ bé, đeo kính cận, nghĩ mãi tôi mới nhớ ra đó là anh Võ Đắc Huề[1]
giáo viên trường Nord-Annam giữ liên lạc giữa Lã Triều Khu với tỉnh bộ Việt minh Thanh hóa. Tôi đã
vài lần đi với Khu đến gặp anh.Anh kia là Hồ Trúc[2] giáo
viên trường thày dòng Mission. Anh thứ ba là Trương Khâm, chủ hiệu sách Hạc Thành. Những người khác thì tôi không biết. Do đâu các anh bị chúng bắt giam? Do đâu số bạn trường Bưởi bị bắt nhiều
thế? Mà lại bị đúng vào lúc đang cần và đang có điều kiện mở rộng phong trào cứu
quốc ở trường, ở tỉnh Thanh, đang
dự định tổ chức đội du kích, lập chiến khu! Tai hại quá!
Tôi được tháo còng tay, len
vào ngồi bên Đường, Kim Khánh hai bạn cùng lớp. Tôi
hỏi Đường:
- Sao nó bắt cậu?
Đường hất hàm ra phía
cửa:
- Tại thằng kia. Thằng khốn nạn! Nó phun ra cả
thảy ba mươi hai anh em mình.
Đường lại hất hàm về phía
cửa có một cậu ngồi gần như tách khỏi mọi người: Lê Đỗ Nguyên[3] lớp Nhì
C. Tôi lết tới bên, dằn giọng hỏi:
- Sao mày khai lắm thế? Mà mày biết đếch gì về
tao mà khai ra cả tao?
Nguyên nhếch mép chẳng ra
cười chẳng ra mếu, thản nhiên đáp:
- Thấy bọn mật thám kháo nhau Ce sont des gosses qui ne savent pas encore
se moucher.(Chúng nó là bọn trẻ ranh hỉ mũi chưa sạch) nên tớ tương kế tựu kế khai thật nhiều để chúng
thấy đây là bọn trẻ con a dua đua đòi nhau chứ chẳng phải là
Việt Minh hay Cộng Sản, ái quần ái quốc gì.
Tôi gầm lên:
- Đồ hèn!
Khoảng 9 giờ sáng, một tên mật thám mở phòng giam ra hiệu
cho Lê Đỗ Nguyên đi theo hắn. Không
thấy Nguyên trở lại, nó
được thả vì có công tố giác 32
người. Quá trưa lại loảng xoảng tiếng xích, một tên mật thám mở cửa vừa
gọi vừa chỉ tay ra hiệu :
- Nguyễn Phan! Lên phòng ông chánh thanh tra.
Tôi bị chúng tra tấn, quay điện trong mười ngày
liền nhưng không khai điều nào có "giá trị", cuối cùng trong
phòng giam chỉ
còn lại tôi và Huy “con”, hai anh Huề, Trúc, và
ba đoàn viên Cứu quốc thị xã. Những anh em
khác đã được thả vì bọn mật thám không thu được bằng chứng gì. Vài
ngày sau, bẩy người chúng tôi bị tống vào nhà tù Thanh Hóa. Tên quản khố xanh dùng hắc ín viết lên lưng áo số
tù của từng người. Hắn viết lên áo tôi số 54 rồi cầm tông-đơ
cạo trọc đầu tôi. Hắn mỉa mai:
-Bố mẹ cho bay
đi học thành cậu tú, nhưng bay ngu dại nên biến thành thằng tù!
Mỗi ngày tù được ăn một bữa với nắm cơm nấu
nước vôi to vừa bằng quả trứng vịt, thức ăn là cái mảnh đầu cá khô
trong khi ăn phải đập mạnh cho dòi bò hết ra. Đêm mùa đông nằm co ro
không chăn chiếu trên tấm phản gỗ đầy rệp, sáng sáng cởi quần áo
cầm chiếc bát bằng vỏ dừa miết theo đường chỉ để giết bớt rận, trứng
rận nổ lép bép.
Một tháng sau, chúng tôi bị đưa ra tòa án Nam triều tỉnh Thanh xử tội “làm loạn” với bản
án 3 năm tù. Nhưng cuộc đảo chính mùng 9 tháng 3 năm 1945 vừa nổ ra, bộ
máy chính quyền tay sai đế quốc Pháp bị lật đổ.. “ Tòa” vừa dứt lời
tuyên án liền bị nhân dân dự khán hét to “ Đả đảo! Đả đảo ! Bắt giam ngay ba thằng tay sai đế quốc đàn áp người yêu nước! “ Cả ba tên
hốt hoảng bỏ chạy qua cửa hậu ném lại sau lưng câu “Cho hưởng án treo”.
Mấy bạn
tù người Thanh Hóa về nhà, số còn lại và vài bạn học về nhà thầy Huề ngồi
nghỉ chốc lát trước khi chia tay. Một cậu tới bên tôi, tự giới thiệu:
Tôi nhìn cậu ta, vẻ dửng dưng không có thiện cảm. Khôi
tiếp:
- Cậu yếu lắm. Về nhà mình nghỉ ít lâu cho khỏe rồi
đi đâu hãy đi.
Thấy đây là dịp tìm hiều thêm về gia
đình tên Nguyên, về trường hợp hắn bị bắt, vả lại lúc này chưa có ý định đi đâu, làm gì nên tôi nhận lời.
Bố mẹ Nguyên là địa chủ có hàng trăm mẫu ruộng phát canh thu tô ở ấp
Thị Long huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa, có ngôi nhà gạch bề thế giữa thị xã, bốn bề là vườn
trồng ngô, su hào và nhiều loại rau xanh. Trong một tuần ở đây, tôi được Khôi
chăm sóc chu đáo từ ăn, ngủ đến thể dục, giải trí. Tôi cảm nhận rất rõ niềm ân
hận của Khôi về tội lỗi của thằng em. Chú Lê Đỗ An[5]
cũng rất ngoan, rất niềm nở, sốt sắng giúp đỡ tôi mọi mặt, sáng nào cũng rủ tôi
đánh bóng bàn. Sau độ nửa giờ, An đưa tôi vào buồng tắm, múc nước giếng mang
vào cho tôi.
Bẩy
ngày sau tôi trở ra Hà Nội, chắp mối với đoàn thể.
Từ cuối tháng 3-1945 đến 19 tháng 8-1945, tôi nối liên lạc với hầu hết những đường
dây Thanh niên Cứu quốc của trường Bưởi, trường Thăng
Long, Đỗ Hữu Vị và nhiều trường Đại học. Tuy theo nguyên tắc bí mật, người trong
đường dây này không được biết người của đường dây khác nhưng trong giai đoạn tiền
khởi nghĩa này tâm lí chủ quan khá phổ biến, các đường dây gần như đã ra “công
khai” hết. Trong những đường dây ấy, không thấy bóng dáng Lê Đỗ
Nguyên, cũng không nghe thấy bất cứ bạn trường Bưởi nào nói đến hắn ta.
Ngày 25-8-1945 đội
Tự vệ Chiến đấu thành Hoàng Diệu ra đời.. Đại đội có 3 trung đội: Tô Hiệu, Ký
Con và trung đội Hà Huy Tập. Ngay buổi đầu họp đại đội tôi thấy Lê Đỗ Nguyên ngồi
trong trung đội Hà Huy Tập. Lúc ấy tôi không nghĩ đến tội hắn đã hèn nhát khai
ra 32 bạn học trong đó có tôi bị tra tấn,
quay điện rồi bỏ tù …trái lại rất mừng khi thấy hắn đứng trong đội ngũ cách mạng.
“Thế là tốt, để cho nó lập công chuộc tội”.
Tôi
không hé răng với ai vụ khai báo của hắn 6 tháng trước. Và suốt 41 năm sau đó,
tôi không lúc nào nghĩ đến chuyện ấy nữa, vì toàn chiến đấu ở những chiến trường xa nên không lần nào thấy lại mặt hắn mà cũng chẳng nghe
tin tức gì về hắn.
Cho đến năm 1986
trước Đại hội VI của Đảng. Thượng tướng Đặng
Vũ Hiệp Ủy viên trung ương Đảng cho biết ban Tổ chức ghi tên Hồng Cư trong danh sách đề cử vào Trung ương. Lúc này tôi là
cán bộ ban Tổng kết trực thuộc Tổng cục Chính trị, Lê Đỗ Nguyên đeo
quân hàm trung tướng với bí danh Phạm Hồng Cư làm phó chủ nhiệm Tổng
cục, là thủ trưởng của tôi. Tố giác hắn chắc chắn tôi sẽ bị hắn
trả thù, nhưng dù thế nào đi nữa cũng không thể để hắn có cơ may
lọt vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Tôi xin gặp Ủy
ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương, nói rõ vụ khai báo nghiêm trọng của trung tướng
Phạm Hồng Cư hồi tháng Hai năm 1945.
Nhiều người trong đơn vị biết tin. Một anh bạn thân đến gặp
tôi, nói:
-Đáng lẽ cậu không nên làm thế. Chỉ
tổ mang vạ vào thân.
Tôi hỏi:
-Thế cứ để nó
ung dung lọt vào Trung ương à?
-Ý mình không phải
thế. Phải
chặn đường nó, nhưng bằng thư nặc danh chứ không lộ mặt. Là
thủ trưởng của cậu nó sẽ dìm cậu đến chết không ngóc
đầu lên được. Cậu hết đường lên tướng, mất tiêu chuẩn xe hơi nhà
lầu và hàng chục quyền lợi khác. Cậu liều quá!
Dám mó dái ngựa vuốt râu hùm!
Mất những thứ ấy kể cũng tiếc thật. Nhưng tôi nghĩ
‘Nhiều đảng viên đã hi sinh cả tính mạng để bảo
vệ Đảng, những thứ tôi để vuột khỏi tay có đáng gì !’
SĐM
[2] Bí
danh của Nguyễn Tài Uyên, nguyên bí
thư trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thứ trưởng Bộ Giáo dục.
3
Con thứ hai của Lê Đỗ Kỳ địa chủ có hàng trăm mẫu ruộng ở Nông Cống
(Thanh Hóa). Vào bộ đội, che giấu thành phần địa chủ và tội khai báo cho mật
thám Pháp bắt 32
người, leo lên đến cấp trung tướng, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt
nam.
[4]
Lê
Đỗ Khôi nguyên chính trị viên tiểu đoàn (E169 F312) hi sinh trong chiến dịch Điện
Biên Phủ vài giờ trước khi quân
ta chiếm hầm De Castries.