Tờ báo Quân Việt Bắc của Cục Chính trị Bộ Tư lệnh
Liên khu Việt Bắc ra đều đều mỗi tuần một số nhanh chóng được du kích và bộ đội
địa phương Liên khu khen ngợi. Mục “Tây thua ta thắng” kể chuyện những mưu mẹo
đánh giặc tài tinh của quân dân ta được mọi người tìm đọc trước tiên khi báo đến
tay. Tôi thường nhắc hai cây bút chính Lê Kim Thảo, Ngô Linh Ngọc: muốn tờ báo
có những bài “bổ ích” và “được bạn đọc ưa thích” cần hai điều kiện : một là có
nhiều cộng tác viên dưới đơn vị viết bài, cung cấp tài liệu, góp ý, hai là
chúng mình phải xuống tham gia chiến đấu với quân dân dưới cơ sở. Bản thân tôi
tuy bận nhiều việc nhưng tự nhủ mình là chủ bút nên phải cố thu xếp thì giờ
thâm nhập thực tiễn.
Hôm
đi Bắc Ninh tìm hiểu về tiểu đoàn bộ đội địa phương Thiên Đức (tên chữ của sông
Đuống), tôi đi với một toán chừng mươi cô dân công vừa hoàn thành nhiệm vụ
ngoài vùng tự do trở về quê trong vùng địch tạm chiếm. Suôt chặng đường hơn năm
chục cây số từ Thái Nguyên đến huyện Việt Yên cô gái quê khoảng đôi mươi trẻ nhất
bọn luôn đi bên tôi trò chuyện rất vui, cung cấp nhiều tài liệu về đời sống
nhân dân vùng địch hậu. Khi tới sông Cầu trời đã tối mịt không còn nhìn rõ mặt
người, cả toán chuẩn bị qua sông sang huyện Yên Phong. Tôi hỏi cô gái:
- Đò đâu, sao không thấy ?
Tiếng
khúc khích cười xen tiếng sóng vỗ bờ:
-
Làm gì có đò ạ. Chúng em vẫn phải bơi qua sông đấy chứ. Đoạn này rộng nhất,
nước chảy xiết nhất nên là chỗ chúng nó ít nghi ngờ nhất. Nhưng nhiều khi bơi
dưới sông thì không sao, lên bờ đi một quãng thì gặp địch. Chúng nó tra hỏi,
khám kĩ lắm cơ. Vì thế chúng em phải giữ quần áo, đầu tóc thật khô để chúng khỏi
nghi. Nói xin lỗi anh, ngay cái quần lót của mình cũng bị chúng nó kiểm tra. Và
kiếm cớ để giở trò khốn nạn…
Ngừng
một lát, cô tiếp:
- Bọn
em bơi qua sông như cơm bữa ấy chứ. Chẳng đêm nào không đưa đón cán bộ huyện
cán bộ tỉnh, rồi cán bộ trung đoàn này đại đoàn kia ra vào như đi chợ ấy…Nhưng
thôi, chuyện chúng em thì nói đến tết cũng chưa hết. Anh cởi quần áo cho vào tấm
ni lông này, túm lại làm phao bơi cho đảm bảo.
Tôi cởi quần áo đưa hết cho cô gái, trên người
chỉ còn chiếc quần đùi. Nghe loáng thoáng có tiếng sột soạt rồi một bàn tay mềm
mại nóng ấm cầm tay tôi dắt xuống sông.
- Anh em mình bám chắc vào bọc quần áo này mà
bơi.
Chiếc phao đơn
giản mà rất tốt, hai người ôm vẫn nổi. Và tôi chợt nhận ra một điều lúc đầu
không để ý: những đụng chạm khi bơi cho thấy trên mình cô gái không có một mảnh
vải nào dù nhỏ.
Nhớ lại chuyện
cô vừa kể tôi thấy xót xa cho thân phận những em gái trong địch hậu. Xót xa và
cảm phục. Vì tình yêu tổ quốc, họ chịu đựng tất cả, hi sinh tất cả, cả những thứ
họ coi là quí nhất trên thân mình… Chẳng dân tộc nào trên thế giới có nhiều nữ
tướng, nữ binh như dân tộc mình. Trước hiểm họa mất nước các bông hoa cũng biến
thành gươm súng. Hạnh phúc cho dân tộc nẩy sinh từ bất hạnh !
Hôm đi lấy tin
ở tiểu đoàn Bạch Đằng bộ đội địa phương tỉnh Quảng Yên tôi được một công nhân mỏ
than Mạo Khê dẫn về Lưu Kiếm xã Yên Đức. Sau chiến dịch đường 18 (chiến dịch
Hoàng Hoa Thám) tháng Ba 1951 bộ đội chủ lực của ta rút đi, địch ra sức củng cố
lực lượng, lùng phá các cơ sở kháng chiến nên việc liên lạc với các đơn vị
trong hậu địch rất khó khăn.
Anh phu mỏ dẫn
tôi vượt qua đường 18 về Chí Linh. Tới một xóm nhỏ thấy trời sắp sáng anh đưa
vào một nhà cơ sở nghỉ chân. Nhà chỉ có hai mẹ con, người chồng đã hi sinh
trong trận Bến Tắm. Khẽ nâng tấm liếp cánh cửa lách vào, anh công nhân bật lửa.
Trên chõng chỉ có chú bé nằm đắp chiếu. Anh gọi chú dậy. Nó mới khoảng mười tuổi,
gầy nhách, dụi đôi mắt hấp hay nhìn rồi lẩm bẩm “Chào chú Đồng”.
Chú
Đồng hỏi:
-
Mẹ đâu ?
-
Mẹ cháu đi chợ mua hàng từ hôm
qua, mai về. Hai chú nghỉ nhà cháu hả ?
-
Ừ. Nghỉ đây tối đi tiếp.
-
Hai chú vào giường mẹ trong buồng
mà ngủ, cháu gác cho.
-
Hầm nhà mình vẫn tốt chứ ?
-
Vâng.
Buồng
trong có chiếc giường gỗ mộc kê sát cửa sau, chắc là cửa xuống bếp. Vừa nằm xuống
tôi đã ngủ vùi…Đang ngủ bỗng thấy mình bị lôi tuột khỏi giường, mắt nhắm mắt mở
nghe tiếng Đồng giục:
- Xuống
hầm !
Nghe thế là tỉnh
ngay, tôi theo Đồng qua cửa sau chạy ra lũy tre sát vách bếp, len vào giữa một
bụi rồi chui xuống hầm bí mật, ngồi thu mình thật gọn giỏng tai nghe động tĩnh.
Tiếng
dụ dỗ :
-
Mấy anh bộ đội đâu? Nói cho chú
biết chú cho nhiều kẹo. Một túi to đây này !
-
Có anh nào đâu ạ. Cháu đang ngủ
có thấy gì đâu ạ.
-
Đừng nói dối. Rõ ràng chú trông thấy mấy anh bộ đội vào đây mà. Nào, nói
đi. Kẹo đây.
-
Chú cho cháu trước đi. Lần sau hễ
trông thấy bộ đội cháu sẽ báo.
-
Địt mẹ thằng ranh con xỏ lá! Này
kẹo này…Này kẹo này…
Tiếng
uỳnh uỵch uỳnh uỵch…Xen lẫn tiếng khóc, tiếng gào “Đau quá chú ơi…Đau quá…Cháu
chết mất thôi…”
Tôi
nhấp nhổm muốn xông lên nhưng rồi nghiến chặt răng ngồi im.
Không
nghe tiếng gì nữa. Chừng mươi phút sau tôi định chui ra nhưng Đồng khẽ giật áo
giữ lại.
-
Đừng vội. Thể nào chúng nó vẫn còn
nấp rình đâu đó.
Chừng
mười phút nữa, tiếng thằng bé nghêu ngao hát một câu chẳng biết là vọng cổ, hò
Huế hay chèo Bắc : “Vẫn còn, vẫn còn một bóng hồng lưu luyến…”…”Vẫn còn, vẫn
còn…”
Đến
quá trưa, tiếng thằng bé:
- Cơm
là cơm chín rồi… Cơm là cơm chín rồi…mình ăn cho đẫy bụng…
Hai anh em ra
khỏi hầm.
Thấy
thằng bé đi tập tễnh tôi hỏi:
-
Có sao không em?
-
Giầy đinh nó đá vào mắt cá chân
thâm tím hết đây này. Nhưng không sao đâu. Anh với chú xơi cơm, em ra đầu ngõ
gác.
Những chuyến
đi vào địch hậu các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên… mang đến cho tôi nhiều
tư liệu rất sinh động, nhiều xúc động sâu sắc, giúp tôi viết được nhiều bài báo
mang hơi thở cuộc chiến đấu anh dũng và sáng tạo của quân dân Liên khu. Và tăng thêm lòng yêu nước,
thương dân, chí căm thù địch của tôi.
Tờ Quân Việt bắc không chỉ có nhiều bài hay mà còn
có hình thức đẹp, in bằng máy chứ không in litho như báo của các Khu bạn. Nhà
viết kịch kiêm nhà thơ tài hoa Lưu Quang Thuận vui vẻ nhận in báo tại một cơ sở
của Việt nam Thư Ấn Cục cùng đóng trong làng Gia Điền với tòa soạn. Thỉnh thoảng
Lưu Quang Thuận ra xóm ngoài ngồi bù khú với Hoàng Cầm, Ngô Linh Ngọc, có bữa dắt
theo thằng con Lưu Quang Vũ lên 2 tuổi. Tôi rất quí thằng bé hiền lành có đôi mắt
mơ màng, thỉnh thoảng có tiền tôi lại mua cho nó vài cái kẹo vừng.
Lưu Quang Thuận sinh
ngày 14 tháng 7 năm 1921 tại Đà Nẵng. Trước 1945, viết kịch bản đầu tay Chu Du đại chiến Uất Trì
(1941) được biểu diễn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Tham gia Việt Minh năm
1946, sáng lập Nhà xuất bản Hoa Lư, tạp chí Sân khấu và là Giám đốc Việt nam
Thư ấn Cục tại chiến khu Việt bắc. Năm 1948 gia nhập quân đội hoạt động trong
Đoàn kịch Chiến thắng cho đến khi chuyển về Đoàn Văn công Nhân dân trung ương.
Từ năm 1954 đến 1964 làm việc tại Đài phát thanh tiếng nói Việt nam, Nhà xuất bản
Văn học, Báo Văn nghệ. Từ 1965 đến khi mất, làm việc tại Nhà hát chèo Việt nam.
Con trai ông là nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ.
Lưu Quang Thuận qua đời
đột ngột ngày 21 tháng 2 năm 1981 khi đang xem biểu diễn tại Nhà hát Lớn thành
phố Hà nội. Trong
khoảng 20 năm cuối đời, không biết vì lý do gì mà Lưu Quang Thuận không được
tăng lương lần nào. 10 ngày sau khi ông qua đời, có người đến nhà ông mang đến
bà quả phụ Vũ Thị Khánh quyết định nâng lương cho ông từ cán sự 6 (93 đồng/tháng)
lên chuyên viên 1 (103 đồng/tháng). Bà Khánh từ tốn cảm ơn và phiền người này
mang giúp bản quyết định nâng lương đến …nghĩa trang Văn Điển!
Lúc
đó tờ Quân Việt bắc đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của nó nên tôi không có điều kiện
đưa sự việc này lên báo. Thật đáng tiếc!
SĐM