Liên khu Việt Bắc vừa là một cấp hành
chính (có Ủy ban Kháng chiến Hành chính) vừa là cấp quân sự (có bộ Tư lệnh) gồm
17 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào
Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ,
Quảng Yên, Hải Ninh, Đặc khu Hòn Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình.
Lê Đình Thiệp chủ nhiệm chính trị bộ Tư
lệnh Liên khu là cán bộ Việt Minh hoạt động từ thời kì bí mật ở Vĩnh Yên, Phú
Thọ. Xuất thân nông dân, ít chữ, không mắc bệnh thành phần chủ nghĩa, đối xử rất
tốt với bọn cán bộ trẻ loại tạch tạch sè chiếm số đông trong cơ quan. Ông cho rằng
chỉ bọn này mới làm được việc ở các ban tuyên huấn, địch vận, hành chính, riêng
các ban bảo vệ, tổ chức, cán bộ mới cần cán bộ thành phần cơ bản, có lập trường
quan điểm vững vàng, ít chữ cũng chẳng sao. Đinh ninh như thế nên khi tôi về
làm trưởng ban tuyên huấn ông rất niềm nở, thực sự vui mừng. Chiến dịch Biên giới
vừa giành thắng lợi to lớn, cánh cửa liên lạc với phe xã hội chủ nghĩa mở rộng,
vô vàn công việc về tuyên truyền cổ động, giáo dục, văn hóa đang chờ trong khi
ban tuyên huấn chưa có người phụ trách. Mà ở đấy toàn những cái đầu xem chừng
không dễ bảo: các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, Hồ Bắc, Văn An, Nguyễn Lầy, ca sĩ
kiêm diễn viên kịch nói Thúy Nga, diễn viên chèo Nguyễn Thị Thậm, diễn viên Huy
Công, nhà văn Ngô Linh Ngọc, Bàng Sĩ Nguyên, thi sĩ Hoàng Cầm, nghệ sĩ nhiếp ảnh
Bàng Thúc Long, nhà báo Lê Kim Thảo, họa sĩ Giang Tô và Tô Linh (con Tô Dĩ tức
Lê Giản giám đốc đầu tiên của Nha Công an)… Một dàn hợp xướng đa dạng đa tài có
khả năng tấu lên những khúc nhạc hay nhưng chưa có nhạc trưởng. Chủ nhiệm Lê
Đình Thiệp tin chắc tôi là dân Hà Nội học đến Tú tài lại đã tham gia hoạt động
bí mật, từng ra tù vào tội chắc có đủ uy tín và tài năng để phụ trách cái tập
thể khá phức tạp này.
Tôi điều hành ban Tuyên huấn khá thuận lợi
không phải vì có tài cán gì mà vì các thành viên tuy có nhiều điểm khác nhau
nhưng rất giống nhau ở một điểm căn bản: thiết tha yêu nước, quyết cống hiến hết
sức mình cho thắng lợi. Tôi tự nhủ “mình dốt thơ dốt nhạc dốt kịch dốt họa nên
đừng can thiệp sâu vào công việc của mấy ông tướng này. Chỉ cần nhắc họ giữ vững
định hướng chính trị trong sáng tác: động viên tình yêu quê hương đất nước,
tinh thần chiến đấu hi sinh giành độc lập tự do. Thế là được. Họ hay mơ mộng viển
vông, họ hay lãng mạn cũng chẳng sao. Bản thân mình cũng hay lãng mạn viển vông
kiểu tiểu tư sản chứ có kém gì!”
Tập thể ban Tuyên huấn sống với nhau như
anh em một nhà, kính trên nhường dưới, giúp đỡ chăm sóc nhau tận tình, chẳng ai
so kè tị nạnh ai.
Riêng hai cậu Ngọc Châu và Xuân Quang sống
cô độc, cả ngày không nói một câu không cười một tiếng. Khi đã thân nhau Châu
và Quang mới tiết lộ với tôi họ là nạn nhân vụ H122.
Năm 1948 cơ quan quân báo được tin bọn
Phòng Nhì (2è Bureau: cơ quan gián điệp Pháp) đã gài được một người của chúng
vào Bộ Chỉ huy khu Việt bắc. Mang bí danh H122, hắn đã lấy được kế hoạch Thu
Đông 1948 của bộ Quốc phòng chuyển vào nội thành cho quân Pháp.
Khu ủy và bộ Tư lệnh Việt bắc mở cuộc điều
tra.
Quân báo của ta phối hợp với công an
truy lùng. Trình độ người phụ trách điều tra rất non kém, cứ nghi ai là cho bắt,
đã thế lại dùng nhiều biện pháp thô bạo - kể cả truy bức, mớm cung, tra tấn... Một
số chiến sĩ, cán bộ của 5 trung đoàn bị bắt, trong đó có một anh chăn ngựa của
quân đội nhận mình chính là H122. Anh ta khai ra nhiều cơ sở ở Thái Nguyên, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phúc Yên. Không chịu được đau đớn, những người bị bắt
khai lung tung, mới hơn một tháng đã có tới mấy trăm người bị tống giam, nhân
dân, bộ đội rất hoang mang.
Được tin, Bác Hồ cử Trần Đăng Ninh chủ
nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đi xác minh. Suốt 3 tháng trời, ông cùng các
thành viên đoàn kiểm tra gặp gỡ từng người bị bắt, thâm nhập thực tế từng khu vực.
Cuối cùng, Trần Đăng Ninh kết luận: “Trong nội bộ không có địch, đây là vụ án
giả tạo, do địch phao tin, những người bị bắt bị mớm cung ép cung nên khai láo
làm mấy trăm người bị oan, ta đã mắc mưu địch...”.
Lê Giản, Tổng giám đốc đầu tiên của Nha
Công an Trung ương kể lại:
“Năm 1948, Trung ương và Bác Hồ giao cho anh
Trần Đăng Ninh đi kiểm tra vụ H122. Tôi được
cùng anh đi làm vụ này. Đó là một vụ đặc biệt có rất nhiều vấn đề, nhiều bài học
tỏ rõ phẩm chất bản lĩnh tài năng lớn của anh Ninh. Trong thẩm tra vụ H122, anh
Ninh có cách làm việc rất khoa học, sâu sát, tỉ mỉ và cẩn thận, kiên quyết... Với
tài năng và trí tuệ, với kinh nghiệm cuộc sống phong phú, từng trải, với tinh
thần làm việc ngày đêm, với quyền lực tối cao được Bác Hồ giao, một lòng vì Đảng,
vì dân, vì công lý, anh Ninh đã giải oan cho mấy trăm người, lấy lại niềm tin
cho cán bộ và nhân dân Từ đó anh được ca tụng là “Bao Công Việt Nam”.
Ngày 19 tháng 1 năm 2011 Tiến sĩ Luật sư
Nguyễn Thắng Cảnh viết trên báo Cựu Chiến binh:
“Kỹ sư Võ Quý Huân, một trí thức Việt kiều theo Bác Hồ về
nước năm 1946, được giao trông coi một cơ sở sản xuất vũ khí ở Liên khu IV. Năm
1949, trong ngành quân giới có tin rằng cơ sở này bị thất thoát nhiều tài sản, Huân tham ô nên mới
có nhiều tiền tiêu sài và ăn mặc sang trọng thế. Trần Đăng Ninh lại được cử đến
điều tra vụ việc. Huân là một nhà khoa học, chỉ chú tâm vào nghiên cứu và sản
xuất, chẳng để ý gì đến việc khác. Sở dĩ anh sinh hoạt khá hơn vì có vốn mang từ
Pháp về; nhà vợ lại giàu có, chu cấp cho chồng thường xuyên. Mấy kẻ xấu ở xí
nghiệp đã lợi dụng chuyện đó để xoay sở, chi tiêu vô nguyên tắc, rồi đổ vấy cho
anh...
“Năm 1951, Trần Đăng Ninh xuống làm việc với Chi cục vận
tải Việt Bắc, đóng ở Nà Cù (tỉnh Bắc Kạn). Xong việc, ông lại lên chiến khu. Khi
đi được hơn 10 cây số, thì có người kể: ‘Chi cục này vừa bắt giam anh Vinh, trạm
trưởng Binh trạm Bắc Kạn, hàng ngày chỉ cho ăn cơm muối, bắt đi làm cỏ vê‘. Đồng
chí Ninh liền lệnh cho xe quay trở lại. Ông chất vấn thẳng thừng Chi cục trưởng,
mặc dù người đó là bạn chiến đấu cũ đã cùng ở tù với nhau:
- Tại sao anh bắt Vinh?
-
Vì nó thụt két một số
tiền lớn
-
Anh đã chắc chưa?
-
Ấy là anh em báo
cáo...
-
Mới nghe báo cáo, mà
anh đã bắt người ta, anh to gan thật! Tôi lệnh
cho anh thả Vinh ra ngay; cho trở lại đơn vị để xác minh lại sổ sách, chứng từ
kế toán. Nếu thụt quỹ, thi hành kỷ luật cũng chưa muộn. Sinh mệnh một con người
mà sao anh xử sự đơn giản thế...
Vụ việc đã được làm rõ: Vinh luộm thuộm,
nghiệp vụ kém; sổ sách kế toán không kịp thời,chứ quỹ tiền mặt không hao hụt
gì.
Cũng ở Chi cục này, lại
xảy ra một chuyện: Binh trạm Cao Bằng mất một số tiền lớn. Không điều tra
nguyên nhân, Chi cục trưởng nhờ Ty Công an bắt giam luôn cả ban chỉ huy trạm.
Nghe chuyện, đồng chí Ninh liền cho xe đón 3 “bị can” về xét hỏi. Cuối cùng một
trạm phó khai nhận đã mở hòm lấy cắp tiền, hiện còn giấu trên mái nhà, chứ trạm
trưởng và trạm phó không liên quan...”
Bao công Trần Đăng Ninh là người như thế
!
Trần
Đăng Ninh (1910-1955), tức Nguyễn Tuấn Đáng, quê xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng
Hòa, Hà Nội. Hoạt động cách mạng năm 1930, vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm
1936. Năm 1939, ủy viên Thành ủy Hà Nội, tham gia lãnh đạo phong trào công
nhân. Năm 1940 ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, được cử về Bắc Sơn lập ủy ban cách mạng, tổ chức du kích, xây dựng
căn cứ Ngũ Viễn - Vũ Lăng. Tháng 5 năm 1941, ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.
Bị Pháp
bắt giam hai lần (1941, 1943), kết án tù 20 năm khổ sai rồi tù chung thân.Hai lần
vượt ngục: tháng 3/1943, vượt ngục lần thứ nhất, tháng 9 năm đó bị bắt lại.
Tháng 3 năm 1945, vượt ngục lần hai, được cử làm ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng
Bắc Kỳ, phụ trách chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tháng 8 năm 1945, vào Tổng bộ Việt
Minh, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc.
Sau
Cách mạng tháng Tám 1945, làm Đặc phái viên của
Trung ương Đảng ở Trung Bộ và Nam Bộ, rồi đặc trách xây dựng căn cứ địa
Việt Bắc, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, Phó Tổng thanh tra Chính phủ
(1946-1949). Năm 1950, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần), Ủy
viên Tổng quân ủy (1950-1955).Đại hội Đảng lần thứ II bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương.
Sau khi
về tiếp quản Hà Nội một thời gian ngắn Trần Đăng Ninh qua đời vì bệnh hiểm
nghèo khi mới 45 tuổi. Được tặng thưởng nhiều huân chương cao quí, được truy tặng
huân chương Sao Vàng
Trong vụ H122 Ngọc Châu và Xuân Quang bị
bắt cùng với một số cán bộ trung cao cấp của quân đội. Hai cậu suy sụp tinh thần,
oán trách tổ chức xử trí oan, dùng nhục hình khi lấy cung, giam giữ khắc nghiệt
làm sức khỏe bị giảm sút mạnh. Biết chuyện, tôi cố tìm cách an ủi, động viên. Dần
dần cả hai tỏ ra vui vẻ hơn đôi chút nhưng chắc chắn trong thâm tâm vẫn còn hậm
hực. Chẳng trách được các cậu ấy. Họ bị oan nhưng sau đó chẳng được chút gì gọi
là chính thức giải oan và bồi thường thiệt hại. Thậm chí một lời xin lỗi cũng
không.
Tôi thường hay ngồi hút thuốc lào với
Hoàng Cầm. Nhà thơ vừa rít từng hơi nhè nhẹ trong điếu cày vừa khe khẽ ngâm những
bài sáng tác từ mấy năm trước, ngâm chẳng bài nào trọn vẹn, bài này một mẩu bài
kia một đoạn, theo ngẫu hứng từng lúc. Cũng có thể vì muốn giãi lòng với người
đảng viên phụ trách mình tuy chỉ đáng tuổi em.
Máu
tôi mai sẽ chảy, trôi phăng kiếp ngựa trâu. Xương tôi tôi bắc nhịp cầu, cho đàn
em bé lên lầu Tự do. (Đêm liên hoan.10/1947)
Chúng
em…Rồi cũng như anh máu chảy ròng. Chết vì Tổ quốc nhẹ như không. Chúng em chết
hết mà không chết. Vì sống muôn đời với núi sông. (Khóc
Lê Lương. 11/1947)
Từ
bé tôi đã là đứa trẻ cục mịch, thờ ơ với thi phú, lớn lên nghe các đàn anh ca
ngợi Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thế Lữ, v.v. tôi dửng dưng chẳng
tìm đọc xem thơ của các vị ấy hay ho đến đâu mà thiên hạ say như điếu đổ …Thậm
chí còn ngầm coi thường những người như Xuân Diệu tự nhận Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây…Những người sống cũng bằng thừa chẳng
ích lợi gì cho nhân quần xã hội!
Cho
tới khi tôi rời địch hậu Lao Cai về làm trưởng ban Tuyên Huấn Cục Chính trị
Liên khu Việt Bắc nơi có khá nhiều văn nghệ sĩ trong đó có nhà thơ Hoàng Cầm.
Thấy
Hoàng Cầm đội trưởng Văn công nhiều tuổi nhất, ít nói, vẻ mặt nghiêm nghị nên
tôi ít trò chuyện, không dám đùa cợt như với những người khác, chỉ quan hệ bình
thường không thân cũng không sơ. Vả lại quân số đội Văn công tuy thuộc ban
Tuyên huấn nhưng về nghiệp vụ chuyên môn thì đội tương đối độc lập nên quan hệ
công tác giữa tôi với đội trưởng Văn công không mật thiết lắm.
Hôm
Hoàng Cầm dẫn đội từ Lao Cai về sau chuyến đi đầy sóng gió –một đêm toàn đội
đang ngồi quanh bếp lửa nhà sàn thì thổ phỉ nấp trong rừng bắn trúng bếp làm
than lửa văng tung tóe, may mà không ai bị thương- tôi tổ chức cuộc họp toàn
ban để mừng thắng lợi. Họp xong, theo thông lệ phải có văn nghệ. Mọi người hét
to“Hoàng Cầm ngâm thơ! Hoàng Cầm ngâm thơ!” Cả mấy chục con người già trẻ gái
trai đều cuồng nhiệt đòi nghe thơ. Tôi không hét nhưng cũng mỉm cười ngụ ý đồng
tình.
Hoàng
Cầm hắng giọng vài lần rồi cất tiếng ngâm bài Bên kia sông Đuống. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nghe ngâm thơ
và lại là nghe một trong những vài thơ hay nhất thời bấy giờ.
Nghe hơi thở lúc dồn dập lúc đứt quãng,
nhìn nét mặt đau xót của Hoàng Cầm khi ngâm Mẹ
con đàn lợn âm dương chia lìa đôi ngả. Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã bây
giờ tan tác về đâu?... tôi ngộ ra một điều: bọn cướp nước không chỉ chiếm
đoạt những giá trị vật thể, hữu hình của đất nước ta mà còn rắp tâm tiêu diệt nền
văn hóa ngàn đời –linh hồn của dân tộc ta nữa. Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…
cùng với vô vàn thứ quí giá khác đang có
nguy cơ mất đi mãi mãi.
Bên kia sông Đuống
làm tôi thay đổi tận gốc thái độ đối với thơ.
Tôi rất biết ơn Hoàng Cầm đã mở rộng cánh cửa tâm hồn tôi để Nàng Thơ ghé thăm
và trao tặng nhiều cảm xúc giúp tôi nhậy cảm hơn, tình yêu nước yêu dân, lòng
căm thù giặc càng sâu sắc thêm.
Sau
đêm ấy, mỗi khi hai anh em ngồi với nhau tôi lại đòi Hoàng Cầm ngâm bài thơ tôi
yêu thích.
Đã
có không ít bài báo, trang sách ca ngợi bài thơ ấy nhưng tôi thích bài của
Phùng Quán nhất vì lời lẽ mộc mạc nhưng ý tứ lại sâu sa:
Thế gian có một ngàn con sông
Và một ngàn nhà thơ lớn
Nhưng chỉ có một dòng
May được thơ xưng tụng
Nhờ đó mà vang vọng
Nhờ đó mà vinh danh
Đó là con sông Đuống
Con sông của quê anh
Mà bàn tay anh xót xa như ngón
rụng
Tôi có một niềm tin sắt đá như
đinh đóng cột
Ngày nào anh nhắm mắt
Đi sau linh cữu anh
Ngoài bạn hữu gia đình
Có cả con sông Đuống
Sông Đuống sẽ mặc đại tang
Khóc bên bồi bên lở
Sóng cuộn bờ nức nở
Ngàn đời chịu tang anh
Lần
nào Hoàng Cầm chiều ý tôi ngâm Bên kiia
sông Đuống Hồ Bắc cũng xán đến nghe ké. Tuy
chẳng học lớp nào về nhạc nhưng năm 19 tuổi Hồ Bắc đã sáng tác bài Làng tôi và nhiều bài hát được bộ đội yêu
thích. Nghe
bài thơ vài lần thành mê, niềm mê biến thành cảm hứng sáng tác: năm 1950 chàng
nhạc sĩ 20 tuổi trình làng một ca khúc cùng tên.
SĐM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét