Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

BIỆT LI, NHỚ NHUNG TỪ ĐÂY…

                                                                                                                           (nhạc sĩ Dzoãn Mẫn)
Cuối năm 1986 tôi đưa vợ con vào thành phố Hồ Chí Minh. Ban ngày làm việc ở đơn vị, buổi tối, ngày nghỉ tranh thủ dịch sách, viết báo, vợ tôi bán cà phê thuốc lá…cuộc sống dần dần tạm ổn, sau hơn hai năm gia đình tôi vượt qua phần lớn những bế tắc hồi ở Hà Nội. Lãnh đạo thành phố có nhiều chủ trương chính sách sáng tạo, mạnh dạn xé rào, cởi trói cho sản xuất kinh doanh nên không khí ở đây thông thoáng, dễ làm ăn, dễ sống. Trong thành phố lại có nhiều người bạn vừa tốt bụng vừa có điều kiện san sẻ cho tôi nhiều thứ, giúp tôi vượt qua khó khăn. Ở Hà Nội tuy cũng có những bạn sẵn sàng giúp đỡ tôi nhưng họ không có khả năng sắm xe Dream như Thiết Vũ, không có con là ca sĩ đêm đêm nhận cát sê trị giá mấy cây vàng như Thái Thị Chi Lan... Các bạn ngoài ấy dù không ai lâm vào cảnh cùng quẫn được mô tả bằng câu vè có phần phóng đại Đầu đường đại tá bơm xe, Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen, Cuối đường thiếu tá bán kem nhưng đều đang rất khó khăn, dù muốn giúp tôi nhưng lực bất tòng tâm.
Vào sống trong thành phố Hồ Chí Minh tôi không còn phải dậy từ 2, 3 giờ sáng đi xếp hàng đong gạo rồi phải về không vì kho hết gạo. Ở đây, mỗi ngày đầu tháng cứ mang bao tải đến ban Hậu cần của đơn vị là có gạo không kèm độn mang về. Ngày nào có thịt tiêu chuẩn, anh bạn Minh Đức đi nhận cho cả khoa giáo viên, mượn cân và dao thớt ngồi pha, chặt chia phần cho từng người đúng cân đúng lạng. Các tiêu chuẩn đường, nước mắm, đậu phụ v.v. đều được cung cấp đầy đủ, đúng hẹn. Các con tôi không còn phải lội bùn mót những cuống rau muống già đem về băm nhỏ hầm nhừ làm canh, tôi không phải hàng ngày bỏ giấc ngủ trưa cầm liềm đi cắt cỏ mang về nuôi thỏ…Mọi thứ từ tiện nghi sinh hoạt gia đình đến phương tiện đi lại, làm việc, giải trí đều dần dần được nâng cấp. Tôi không còn phải suốt ngày suốt đêm quanh quẩn kiếm cơm kiếm tiền mà đã có thì giờ làm vài việc có ích cho cộng đồng, đã có những phút ngồi uống trà với bạn bè thân thiết, phì phèo điếu thuốc đầu lọc tán gẫu với nhau về thế thái nhân tình. Cuộc sống đã có những niềm vui nho nhỏ, tôi tìm lại được tiếng cười tưởng chừng đã mất.

Nhưng vẫn nhiều lúc rất buồn.
Tháng Tư thành phố Hồ Chí Minh không tràn ngập hoa loa kèn như Hà Nội, nhưng đi trên đường phố đôi khi vẫn bắt gặp những bông hoa trinh trắng ấy vẫy gọi trở về với kí ức. Tháng Tám thành phố không có những làn gió thu thơm mùi cốm, đêm đêm vắng mùi hoa sữa khi ngát khi nồng tùy theo tâm trạng vui buồn …Với tôi Hà Nội đẹp hơn hẳn những thủ đô tôi đã đi qua, kể cả Paris hoa lệ. Hà Nội của tôi đẹp không đâu sánh kịp vì mỗi nơi mỗi chốn đều gắn với những người tôi thương mến quí yêu, mang ơn sâu nặng. Trường Bưởi bên bờ Hồ Tây mịt mùng khói tỏa ngàn sương[1] có bao nhiêu bạn cùng chí hướng đã hi sinh vì Tổ quốc… Quán sữa vỉa hè ga Hàng Lọng nơi Nguyễn Anh Bảo nhiều sáng vét hết tiền trong túi đưa tôi đến uống hot milk vì thương tôi gầy yếu sau khi ra tù Nhật… Làng Ngọc Hà có hai vợ chồng người Hoa chăm sóc tôi như ruột thịt, hàng ngày lo lắng bảo vệ tôi khỏi rơi vào tay địch…nơi cô vợ lính Lê dương người Đức trao cho tôi khẩu Walther của chồng làm quà cho Việt Minh… Ngõ Huế có anh trí thức trẻ theo đạo Thiên chúa đã nuôi tôi mấy tháng trời…Trên bến Phà Đen anh công nhân Tám đã dạy tôi bài học về tình hữu ái giai cấp…Đường Cổ Ngư có cô gái gần chết đói vẫn xẻ nắm cơm cho tôi một nửa… Vườn hoa Ba Đình tôi cùng đồng đội Tự vệ Chiến đấu bảo vệ Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, cách không xa là Phủ Chủ tịch nơi tôi vào chúc Tết Bác Hồ năm Bính Tuất… Phố Gambetta trong ngôi nhà số 107 bí thư Lê Trung Toản đã chủ trì lễ kết nạp tôi vào đảng Cộng sản Đông Dương… Ga Hàng Cỏ đêm cuối tháng 12-1945 chật ních người mang cờ, hoa, đàn, sáo ra tiễn đoàn quân xung phong Nam tiến đầu tiên trong đó có tôi và 30 chàng trai Hà Nội…Ga tàu điện Bờ Hồ bọn Quốc dân đảng phản động đang hò hét “đả đảo Tổng tuyển cử” bị chúng tôi đánh cho tan tác, trong trận chiến ấy Lê Thành Quế đã anh dũng hi sinh …Chiến tuyến phố Hàng Thiếc trung đội phó Trần Đan tuy bị lựu đạn “lọ mực” nổ cướp làm gẫy tay phải vẫn dùng tay trái còn lại tiếp tục ném lựu đạn chặn đánh giặc Pháp, đồng đội phải lôi đi cưa cụt cánh tay gẫy, cưa tay mà không có thuốc mê… Tại ô Cầu Dền, Đỗ Đức Kiên đã cấp cho tôi những chiến sĩ thiện chiến nhất để thọc sâu vào sau lưng bọn Pháp, khuyến khích tôi viết bài báo đầu tiên trong đời…Phố Blockhaus-Nord (Phó Đức Chính) có căn nhà hai chị em tôi sống tuổi học trò mồ côi, nhường nhau từng củ khoai luộc thay cơm, nơi Lê Quang Đạo bí thư Đảng bộ Hà Nội đã dạy tôi bài học về cách mạng giải phóng dân tộc mở đường cho tôi đi tìm lẽ sống cuộc đời. Cửa sau căn nhà ấy thông ra phố Châu Long có cô nữ sinh Đồng Khánh đã gạt nước mắt dứt áo ra đi vì lão thầy bói Quỉ Cốc tử phán cô có tướng ‘sát phu’, trên má có nốt ruồi ‘thương phu trích lệ’…
Mỗi đường phố, mỗi ngõ nhỏ của Hà Nội đều có những con người đầy lòng yêu nước, hào hoa, thanh lịch, dũng cảm, nghĩa tình… Bao nhiêu kỉ niệm vui buồn không sao kể xiết của gần trọn đời sống và chiến đấu cùng Hà Nội, vì Hà Nội ùn ùn kéo về trĩu nặng trên tim nhiều lúc làm tôi tràn nước mắt.
Dù có đi bốn phương trời,
Lòng vẫn nhớ về Hà Nội,
Hà Nội của ta, thủ đô yêu dấu
Một thời đạn bom một thời hòa bình[2]                               

Tôi có người bạn học cùng lớp tên là Châu rất đẹp trai, môi đỏ, da trắng, khuôn trăng đầy đặn, thân hình thanh tú nên trong ngày Hội Trường một năm đầu thập niên 1940 được Ba Khang -thầy dậy sử, trưởng ban tổ chức, tác giả kịch bản kiêm đạo diễn ngày Hội Trường- giao cho Châu sắm vai Huyền Trân công chúa trong màn trình diễn cảnh nàng giã từ vua cha Trần Nhân Tông vào Chiêm Thành làm vợ vua Chế Mân đổi lấy châu Ô châu Rí cho nước nhà Đại Việt.
Nước non ngàn dặm ra đi…Châu vào sống trong Sài Gòn qua hơn nửa thế kỉ thì sinh bệnh phải nằm liệt giường. Nhớ Hà Nội lắm… Từ độ người đi thương nhớ âm thầm [3]  Châu bảo vợ dán tấm bản đồ Hà Nội lên bức tường ngay bên. Những lúc tỉnh, Châu ngước nhìn chằm chặp lên tấm bản đồ cố tìm lại những con đường in dấu thời trai trẻ…Tuổi phong sương ta vẫn gắng đi tìm… Chiếc cát xét cũ kĩ trong gian phòng nhỏ không ngớt thì thầm những bài hát về Hà Nội. Chị vợ ngồi bên giường cầm khăn luôn tay chấm chấm những giọt nước mắt rị ra từ đuôi mắt chồng.
Lúc biết mình sắp lìa đời, Châu cố vẫy ngón tay lên phía tường rồi chỉ vào ngực mình. Người vợ hiểu ý, gỡ tấm bản đồ đặt lên ngực chồng.
Châu về với Đất Mẹ Sài Gòn, trên ngực phủ tấm bản đồ Hà Nội.
Lúc phải đi khỏi cõi này, lòng vẫn ôm theo bóng hình nơi ấy. Để Nghìn năm sau ta níu bóng quay về…                                                                                                                                           
 SĐM
---------------------------


[1] Thơ Dương Khuê, quan nhà Nguyễn (1839-1902).
2 Ca khúc Nhớ về Hà Nội của nhạc sĩ Hoàng Hiệp.
3 Ca khúc Có phải em là mùa thu Hà Nội.  Nhạc Trần Quân Lộc- thơ Tô Như Châu.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét