Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

NHÀ THƠ TRONG VỤ ÁN TRẦN DỤ CHÂU



Chủ nhiệm chính trị Lê Đình Thiệp bảo tôi:
- Tổng cục mở lớp chính trị ngắn ngày do cố vấn Trung quốc phụ trách. Cậu đi học rồi về truyền lại cho cán bộ phòng ta.
Tôi đeo túi dết quần áo lên Tuyên Quang dự tập huấn.
Vừa lên tới nơi thì được nghe số cán bộ của Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị về dự tập huấn bàn tán sôi nổi về vụ xử tử  Cục trưởng Quân nhu Trần Dụ Châu, lần đầu tiên một cán bộ cao cấp của Quân đội Nhân dân bị tử hình… Tôi hào hứng nhập bọn ngay để tìm hiểu về vụ án đang gây chấn động mạnh trong dư luận.
Nhà thơ Đoàn Phú Tứ được coi là người có công đầu trong vụ Trần Dụ Châu. Đoàn Phú Tứ nổi tiếng từ năm 1942 khi cùng Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh thành lập nhóm Xuân Thu Nhã tập, với mục đích đổi mới sáng tác văn học nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu Trần Huyền Sâm viết trên tạp chí Sông Hương số 207, tháng 5 năm 2006 :
… Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác...Trong tiến trình của văn học Việt, hiếm có nhóm sáng tác nào lại độc đáo như Xuân Thu Nhã tập. Độc đáo về chủ thể sáng tác, về đặc điểm thể loại và số phận tác phẩm. Xuân Thu chỉ tồn tại trong vòng mấy năm (1942-1945), và chỉ gồm mấy tác giả, nhưng lại hội tụ đầy đủ cả "đại gia đình" nghệ thuật: thơ ca, âm nhạc, hội họa. Số lượng sáng tác cũng rất "khiêm tốn" nhưng lại rất đa dạng về thể loại: thơ, văn xuôi, tiểu luận... Xuân Thu nhã tập có hẳn một nguyên lý sáng tác, một hệ thống quan điểm nghệ thuật riêng. Mục đích sáng tác cũng khá độc đáo "Dưới bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: TRÍ THỨC - SÁNG TẠO - ĐẠO ĐỨC ...Ngay từ khi ra đời, Xuân Thu đã mang một tinh thần tiên phong với ý thức cách tân táo bạo. Mục đích cách tân thể hiện trên hai phương diện:
* Không lặp lại cái Tôi của Thơ mới.
* Chống lại sự đồng hóa của phương Tây để ngăn cái họa mất gốc.

...Xuân Thu nhã tập từng được đánh giá như một ‘hiện tượng nghệ thuật độc đáo, lý thú ‘những ‘trang viết tuyệt vời’. Xuân Thu cũng từng bị xem như những gì ‘tắc tị, tăm tối, bí hiểm’. Nếu tránh được những ý kiến cực đoan, gạt bỏ những hạn chế tất yếu của Xuân Thu, chúng ta có thể tìm thấy những hạt nhân hợp lý, những giá trị đích thực để vận dụng vào công cuộc đổi mới văn học hôm nay...”

        35 tuổi Đoàn Phú Tứ đi theo kháng chiến và trở thành đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên (1946), đảm trách nhiều công tác ở Liên khu IV, Liên khu V, Thanh Hóa. Năm 1948 về Thái Nguyên làm Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam và tham gia Thường vụ Đoàn Sân khấu Việt Nam. Thời gian này, Đoàn Phú Tứ chuyên tâm sáng tác, giảng dạy và đi thực tế lấy vốn sống để viết kịch. Một năm sau, xuất bản tập kịch “Trở về” với nhiều đề tài phong phú phản ánh những tấm gương hi sinh cho cuộc chiến đấu trường kỳ gian khổ của dân tộc. Thời kì này quân đội ta đang rất thiếu thốn. Gạo bảo quản trong kho bằng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều, lĩnh gạo về chỉ rửa qua vì vo kỹ thì gạo sẽ tan theo nước. Để chống đói, có bữa bộ đội phải ăn măng rừng thay cơm, có khi ăn cháo khi truy kích địch. Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và một tấm “chăn kháng chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng. Nhiều chiến sĩ không chăn, không áo ấm, phong phanh tấm áo mỏng đứng gác trên đèo. Thuốc men thiếu thốn, nhất là thuốc sốt rét, Quinacrine phải pha với nước để uống nên hiệu quả không cao. Trong khi đại tá Trần Dụ Châu Cục trưởng Quân nhu ăn toàn đồ ngon, uống rượu Tây, hút thuốc ba số…
Đoàn Phú Tứ và nhà văn Nguyễn Đình Tôn được Trần Dụ Châu mời dự đám cưới Bùi Minh Trân đàn em thân tín của hắn. Đám cưới diễn ra ngày 4 tháng Tư 1950 tại làng Lang Tạ do Lê Sĩ Cửu làm Trưởng ban tổ chức
Nguyễn Đình Tôn viết trên báo Cứu Quốc số 1548 ngày 15/5/1950:
“...hội trường dựng bằng tre nứa, lợp lá gồi, sáng trưng những dãy nến bạch lạp to bằng cổ tay. Những dãy bàn dài tít tắp xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò chả, thịt bò thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng. Hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội đưa lên. Ban nhạc Cảnh Thân từ Khu Ba lên tấu nhạc.
“Trần Dụ Châu mặc quân phục choáng lộn, cưỡi ngựa đến dự cưới, theo sau là một vệ sĩ cao lớn, súng ‘côn bạt’ đeo xệ bên hông. Tân khách ngồi chật kín hội trường, mắt hau háu nhìn bàn tiệc. Rượu vang đỏ rót đầy các cốc. Chủ hôn Trần Dụ Châu oai phong, đầy quyền uy bước ra tuyên bố làm lễ thành hôn cho đôi vợ chồng hắn đỡ đầu, và trịnh trọng mời tân khách nâng cốc trong tiếng nhạc vang lừng. Nhìn thấy nhà thơ ngồi ở bàn đầu, hắn tươi cười giới thiệu: ‘Đám cưới hôm nay có một vị khách đặc biệt là ông Đoàn Phú Tứ, nhà thơ cự phách của nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Xin mời nhà thơ lên đọc một bài thơ mừng cô dâu chú rể và quý vị tân khách’.
“Đoàn Phú Tứ đứng dậy, đăm đăm nhìn cốc rượu vang đỏ như máu …Ông giận run lên, ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, nói lớn, nhấn mạnh từng từ cho tất cả những người dự tiệc nghe thấy: ‘Tôi xin đọc tặng vị chủ hôn, cô dâu chú rể và tất cả các vị có mặt hôm nay, một câu thơ hay tôi vừa nghĩ ra’… Khắp các bàn tiệc dậy lên tiếng xì xào tán thưởng: ‘Hoan hô Xuân Thu Nhã Tập! Hoan hô thi sĩ Đoàn Phú Tứ!’.  Chờ cho tiếng xì xào im hẳn, nhà thơ nói tiếp: ‘Thơ như sau: Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay, được dọn bằng máu xương chiến sĩ!’
“Trần Dụ Châu mặt tái nhợt quát to ’Láo!’ Vệ sĩ của hắn xông tới tát bốp vào mặt nhà thơ, đại biểu Quốc hội.  Đoàn Phú Tứ lặng lẽ rút khăn tay lau mặt, ném khăn xuống đất, nhổ vào cốc rượu trước mặt, đĩnh đạc bước ra khỏi phòng.
 Ngay đêm hôm đó, nhà thơ viết một bức thư dài gửi lên Hồ Chủ Tịch, trình bày toàn bộ sự việc.     
Thư có đoạn viết:
‘ Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu đã dùng quyền lực ‘ban phát’ thức ăn đồ mặc để giở trò ăn cắp. Cứ mỗi cái màn lính, Châu ăn cắp hai tấc vải nên hễ ngồi lên là đầu chạm đình màn. Áo trấn thủ bị Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào. Nhiều người biết đấy nhưng không ai dám ho he... Cháu cùng với một đoàn nhà văn đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội vừa đi đánh giặc trở về. Cháu đã khóc nấc lên khi thấy các chiến sĩ bị thương thiếu thuốc men, bông băng, hầu hết các chiến sĩ đều rách rưới đói rét, chỉ còn mắt với răng giữa mùa đông chiến khu lạnh lắm, lạnh tới mức nước đóng băng ’…Sau đó, nhà thơ kể về tiệc cưới  Bùi Minh Trân…”
x  x  x
Một đêm hè năm 1950 tại chiến khu Việt Bắc, Thiếu tướng Trần Tử Bình Phó Bí thư Quân ủy Trung ương được mời lên gặp Bác.
Bác trao lá thư của Đoàn Phú Tứ: “Thư của một nhà thơ gửi cho Bác. Bác đã đọc kỹ và rất đau lòng!”. Bác dứt khoát: "Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan nguy hiểm". Bác giao cho Thiếu tướng điều tra vụ việc.
Trước khi điều tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt cục phó Quân nhu Phạm Toàn để lấy lời khai. Tạm giam Toàn tại nhà dân, có bộ đội canh giữ. Đêm ấy, Toàn lấy trộm lựu đạn, mở chốt, úp mặt vào… 
Ngay hôm sau, Tổng Thanh tra quân đội Lê Thiết Hùng triệu tập cuộc họp bàn việc “Điều tra vụ tham ô của Đại tá Trần Dụ Châu”. Cán bộ Thanh tra tỏa về các liên khu. Thiếu tướng Lê Thiết Hùng trực tiếp gặp từng cán bộ, chiến sĩ trò chuyện về đời sống, về chất lượng và cách cấp phát quân nhu của đại tá Châu.
Tài liệu từ Khu Bốn gửi ra, từ Khu Ba gửi lên, rồi từ chiến khu Việt Bắc... Trần Dụ Châu hiện nguyên hình một kẻ gian hùng, trác táng, phản bội lòng tin của Đảng, xâm phạm lợi ích quốc gia.
Ngày 5/9/1950, tại thị xã Thái Nguyên, Tòa án Binh tối cao mở phiên tòa xử Trần Dụ Châu. Lê Sĩ Cửu vắng mặt vì đang ốm. Tại cửa phòng xử án căng khẩu hiệu "Nêu cao ánh sáng công lý trong quân đội". Trong phòng treo 2 khẩu hiệu "Quân pháp vô thân!" và "Trừng trị để giáo huấn!".
Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án cùng 2 hội thẩm: Phạm Học Hải - Giám đốc sở Tư pháp Liên khu Việt Bắc và Trần Tấn - Cục phó Cục Quân nhu. Thiếu tướng Trần Tử Bình, ngồi ghế Công tố viên. Nhiều đại diện các cơ quan dân chính đảng cùng đại biểu quân đội, đại diện các đoàn thể nhân dân và các nhà báo tới dự.
Các chứng cứ cho thấy Trần Dụ Châu tham ô, lợi dụng chức quyền biển thủ 57.950 đồng Việt Nam, 449 USD, 28 tấm lụa xanh, nhận 20 vạn đồng tiền hối lộ, sống xa hoa, trụy lạc,  bè phái, gây chia rẽ nội bộ.
Công tố viên Trần Tử Bình đọc cáo trạng trong đó có những đoạn:

Trong tình thế gấp rút chuẩn bị Tổng phản công, để đền nợ cho quân đội, để làm  gương cho cán bộ và nhân dân, để cảnh tỉnh những kẻ đang miệt mài nghĩ phương kế xoay tiền của Chính phủ, những kẻ bày ra mưu nọ kế kia, lừa trên bịp dưới, để trừ hết bọn mọt quỹ tham ô, dâm đãng, để làm bài học cho những ai đang trục lợi kháng chiến, đang cậy quyền, cậy thế loè bịp nhân dân, bản án mà Toà sắp tuyên bố phải là một bài học về đạo đức cách mạng cho mọi người, thoả mãn lòng công phẫn của nhân dân, làm cho nhân dân thêm tin tưởng và nỗ lực hy sinh cho cuộc toàn thắng của nước nhà. Vì vậy, tôi yêu cầu toà xử phạt:
1 - Trần Dụ Châu: tử hình
2 - Tịch thu ba phần tư tài sản
3 - Tịch thu những tang vật hối lộ

Thiếu tướng Chánh án tuyên án:
“Trần Dụ Châu can tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến: Tử hình, tịch thu ba phần tư tài sản. Lê Sĩ Cửu: xử tử hình vắng mặt. Bùi Minh Trân can tội biển thủ công quỹ, thông đồng với bọn buôn lậu giả mạo giấy tờ: 10 năm tù giam.”

Chủ tịch Hồ chí Minh bác đơn xin giảm tội của Châu. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan…
Lúc này, nước ta còn đang trong vòng vây của địch, biên giới bị bịt kín, ta phải hoàn toàn tự lực, cán bộ, bộ đội chưa có lương còn do dân nuôi, thiếu thốn đủ mọi thứ. Thế nước đang như “ngàn cân treo sợi tóc” nên mọi người đều tin chắc vụ tham nhũng lớn này chỉ giải quyết trong nội bộ. Thế nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải thông tin rộng rãi cho nhân dân biết,  phải tường thuật đầy đủ trên báo Cứu Quốc và đài Tiếng nói Việt Nam. Tiền của bọn tham nhũng lấy là tiền đóng góp của dân nên phải báo cáo với dân.
Báo Cứu Quốc đăng bài tường thuật 6 kỳ liền, có bốn kỳ trên trang nhất, nêu tỉ mỉ các thủ đoạn, mánh khóe moi tiền của Nhà nước cùng mọi trò ăn chơi, sa đọa của bọn tham nhũng.
Xã luận “Nhân vụ án Trần Dụ Châu” phân tích tại sao lại công khai với toàn dân:
“… Có người e ngại chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ những tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một số dân chúng chê trách hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu Chính quyền, Đoàn thể ta (thời gian này Đảng đang tự giải tán vì vậy công khai trên báo gọi Đảng là Đoàn thể). Không! Chúng ta không sợ phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đây là sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn phê bình những sai lầm của cán bộ, của Chính quyền, Đoàn thể. Vì họ đã hiểu Chính quyền, Đoàn thể là Chính quyền, Đoàn thể của mình nên họ nhất định không tha thứ những kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ. Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của người khác, tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững mạnh. Đấy không phải là việc riêng của Chính phủ, của Đoàn thể mà đấy là bổn phận của các tầng lớp quần chúng nhân dân đông đảo chúng ta”.
Vừa đọc các bài báo chúng tôi vừa mạn đàm sôi nổi và tất cả đều tin chắc “hễ thằng quan tham nào lộ mặt là Chính phủ và Đảng ta sẽ trị ngay, nhờ vậy muôn đời dân ta sẽ không khổ sở vì bị chúng nó bóc lột”. Mà chỉ cần làm đúng lời Bác Hồ dạy: “Dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan nguy hiểm”  “Tiền của bọn tham nhũng lấy là tiền đóng góp của dân nên phải báo cáo với dân”.
                                                                                                                                              SĐM
                                                                                                                                                      

1 nhận xét:

  1. Chuyện% của 65 năm trước mà nay đọc lại vẫn xa xót tim gan. Làm sao để sống lại pháp luật nghiêm mimh của ngày ấy để lam trong sáng đất nước Việt nam anh hùng của chúng ta,

    Trả lờiXóa